Print this page

Tuỳ bút vùng biên cực Bắc

Nếu so với Quản Bạ, Yên Minh, những thị trấn thung lũng giữa miền núi đá, thì Phó Bảng ở vị trí cao hơn. Cũng ba bề bốn bên là núi non trùng điệp, nhưng Phó Bảng được thiên nhiên ban tặng một thế phong thuỷ đắc địa. Một đô thị nhỏ xinh xắn giữa một khu vực bằng phẳng với ruộng nương tràn vào phố, phố nối với sườn núi chênh vênh, núi đưa suối đến...

Bây giờ thì Phó Bảng là một thị trấn tĩnh lặng. Nhịp sống êm đềm nơi đây khiến cho du khách ngỡ như Phó Bảng là một phố thị bị lãng quên. Một dãy nhà rất cổ, có lẽ những ngôi nhà nơi đây cứ tồn tại như hồi người ta mới làm ra nó. Tường trình bằng đất dày, mái nhà thấp, những cửa lùa áp mái mở ra một sàn để đồ, treo ngô. Trên đường đàn gà cục tác, những con chó con mèo cùng nằm sưởi nắng. Cánh cửa mở hé có cụ già ngồi lim dim nhìn ra ngoài. Đang đi vài tiếng đồng hồ từ thị xã Hà Giang đến, tưởng như cuộc sống đang chậm lại ở nơi này.

pho-co-pho-bang

Bây giờ thì bạn có thể nhìn thấy nhiều chữ Hán kiểu phồn thể ở trên tường một số ngôi nhà. Nhưng cách đây hơn ba mươi năm, toàn bộ nhà cửa ở Phó Bảng đều dày đặc chữ Hán. Đây là thị trấn của người gốc Hoa. Cô bạn Đỗ Thuỵ Liên, giờ là cán bộ của một công ty kinh doanh văn hoá phẩm ở Côn Minh cùng đi với tôi lên Hà Giang, đã từng là cư dân Phó Bảng. Thuỵ Liên kể, hồi những năm bảy mươi, cả thị trấn chỉ có một nhà người Mông, một nhà người Dao, còn lại toàn là người Hoa.

Trong câu chuyện của Liên, ký ức của cô về Phó Bảng là một thị trấn phồn thịnh. Thanh niên nam nữ hồi những năm sáu mươi, bảy mươi thường tụ tập khiêu vũ, chơi nhạc. Con trai thường chơi được một hai thứ nhạc cụ. Nhà người Hoa Phó Bảng thường giàu có hơn người Hoa Hà Giang, nhưng khi quân tử Phó Bảng về Hà Giang thường chịu tiếng là anh nhà quê ra tỉnh, một phần vì người Phó Bảng nói tiếng Hoa Vân Nam, còn người Hoa Hà Giang nói tiếng Quảng Đông, thứ tiếng Việt cổ xưa gần gũi với người Việt dùng âm Hán Việt. Chính vì giàu có nên người Phó Bảng có tiếng "ăn chơi" hơn cả Hà Giang, con cái thường được học hành tử tế, học nhạc, chơi thể thao, giữ gìn văn hoá Hoa truyền thống.

Tôi đến Phó Bảng cùng với cô Dương Kim Liên, dân Hà Giang hiện ở Canada, nhưng một thời cùng đã qua lại Phó Bảng. Cô Kim Liên đi một đoạn phố Phó Bảng, gặp khoảng mươi người, đã nói đến bốn, năm thứ tiếng. Người Phó Bảng từ mấy chục năm trước, sinh sống ở đây phải giao dịch được bằng tiếng Hoa Vân Nam, tiếng Mông, ai đi chợ thì phải nói được tiếng Tày, tiếng Nùng, tiếng Thái. Từ phố Phó Bảng, ngẩng lên nhìn thấy những đỉnh núi ngay trước mặt, leo qua sườn núi thì bên kia là đất Trung Quốc. Cư dân hai bên qua lại bình thường, cư trú xen cài nhau nhiều đời. Hoa hay Mông, Tày hay Nùng đều thân thiết, gần gũi, mộc mạc. Bây giờ thì Phó Bảng không còn giữ được vẻ phồn hoa của nó mấy chục năm về trước. Vẫn là nơi giao lưu, nối giữa Đồng Văn với Hà Giang, nhưng lại chỉ đơn thuần là điểm dừng chân cho du khách hiếu kỳ. Còn đâu bóng dáng của nó nửa thế kỷ, gần một thế kỷ trước, chính là con đường thuốc phiện đã nhiều đời. Vua Mông Vương Chính Đức có nhà ở tại Phó Bảng, sau này mới xây dinh cơ ở Sà Phìn cách Phó Bảng gần mười cây số. Chính họ nhà Vương đã làm vua vùng sơn cước này, kiểm soát toàn bộ thuốc phiện của vùng biên cương, làm nên Phó Bảng sầm uất cái dáng vẻ riêng có của nó từ xưa.

tre-em-pho-bang

Đi trên một con đường bằng phẳng, nhưng cỏ mọc xanh lút bàn chân, có vài ngôi nhà đổ nát còn tường nham nhở, Dương Kim Liên bảo, đây chính là một phố ngày xưa. Cuộc chiến năm bảy chín đã tàn phá đô thị cổ sần uất này. Pháo bên này hay bên kia? Không ai còn phân biệt nổi bên nào bắn nhiều hơn bên nào. Nhưng những con người Phó Bảng thì chịu khổ đau hơn cả. Họ là những người Việt như bất kỳ người Việt nào ở sâu trong đất nước, chỉ có khác duy nhất là họ ở gần biên cương phía Bắc mà thôi. Bây giờ thì những người Việt ấy đã định cư khắp nơi trên thế giới, hàng năm vẫn họp mặt đồng hương Phó Bảng, nhớ về nơi thị trấn nhỏ giữa một vùng cao nguyên đá mênh mông... Dương Kim Liên kể, đã có người từ nước ngoài về Phó Bảng, sẵn sàng đầu tư để giữ gìn phố cổ, hoặc khôi phục khu phố mới, nhưng ý tưởng vẫn là ý tưởng, chưa có điều kiện để thành hiện thực.

Trên đường về Đồng Văn, từ Phó Bảng, phải qua Sà Phìn, nơi có một "đặc sản" là nhà của «Vua Mèo». Thực ra, ông Vương Chính Đức chỉ là một Bang tá, chức quan hàng huyện của thời Pháp thuộc, nhưng người ta gọi ông là vua, dần thành quen. Ông Chính Đức tìm được mảnh đất phong thuỷ tuyệt vời, đó là nơi có dinh cơ nhà Vương bây giờ ở Sà Phìn. Trên thế đất bằng phẳng hình Kim Quy, tựa vào thế núi hình tay ngai, trước mặt là thung lũng Sà Phìn có một trái núi cao vút nhọn hoắt như măng mọc, như cái đầu con rùa. Có lẽ vì vậy mà cơ nghiệp của ông vua Mèo này ngày càng lấn át các ông vua khác chăng? Cũng có thể là do ông Vương kiểm soát hết việc buôn bán thuốc phiện, hàng hoá ở khu vực này mà trở nên giàu có, thế lực và thách thức cả sự cai trị của người Pháp. Năm 1936, chính quyền Pháp triệu tập các tù trưởng ở vùng Hà Giang về Hà Nội họp rồi giam họ lại, hệ quả của việc này dai dẳng đến sau này. Trong số các con của 3 bà vợ ông Vương Chính Đức, chỉ có Vương Chí Sình, người con thứ hai là giỏi giang nhất. Ông đã về Hà Nội ra tay cứu bố. Câu chuyện cứu cha này như một huyền thoại, cuối cùng ông bố được tha, và Vương Chí Sình trở nên là người kế tục vương vị của Vương Chính Đức. Ông Sình đã mua căn nhà 55 Hàng Đường, Hà Nội để qua lại thủ đô, củng cố cơ nghiệp. Có lẽ bất đồng với Pháp, mà cha con nhà Vương đã tổ chức quân đội riêng, đến năm 1945, đoàn quân của Vương Chí Sình đã đánh một trận và thắng huy hoàng quân đội Nhật. Lẽ dĩ nhiên, ý chí của Vương Chí Sình trùng với mục tiêu của Việt Minh. Sau cách mạng tháng Tám, ông Vương Chí Sình đã ủng hộ Việt Minh 22 triệu đồng tiền Đông Dương và hàng vạn cân bạc hoa xoè, trở thành đại biểu Quốc hội của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, trở thành Chủ tịch huyện Đồng Văn. Ông Vương Chí Sình còn kết nghĩa anh em với Chủ tịch Hồ Chí Minh, được Hồ Chủ tịch tặng thanh kiếm khắc tám chữ : «Tận trung báo quốc, bất thụ nô lệ» và ông tiếp tục là đại biểu Quốc hội khoá 2.

nha-vua-meo

Bây giờ thì khu nhà họ Vương đã được tu bổ, trở thành di tích quốc gia, xung quanh con cháu họ Vương quây tụ. Dinh cơ hoa lệ một thời, nay cũng tịch mịch, cái tĩnh lặng của một ông già lim dim nhớ thời thanh niên sôi nổi. Song, trong câu chuyện của người đến thăm, người còn sống thì còn nhiều điều trăn trở. Ông Vương Chí Sình hiện còn con cháu đích tôn ở nước ngoài, chuyện dòng trưởng dòng thứ là chuyện của nội tộc họ Vương, nhưng còn vấn đề vài trò của Vương Chí Sình đối với vùng nước non Đồng Văn này thì vẫn còn chưa lý giải thấu đáo. Vẫn còn những cách nhìn khác nhau về đoạn đời của người anh hùng sơn cước này, mà thời gian càng lùi xa, có lẽ cách nhìn về ông cũng khác. Gạt ra những quan điểm về giai cấp bấy lâu nay, đặt ông Vương vào dòng xoáy của thời cuộc, sống cùng ông với cảm quan thời đại ông đã sống, may ra mới có thể hiểu để xây dựng chân dung về một nhân vật có tầm vóc này.

Nơi sơn cước xa xôi, cũng có những huyền thoại lớn. Chuyện về con người, chuyện về vùng đất này có sức hấp dẫn lạ kỳ.

Phiên chợ Đồng Văn chăc chắn cuốn hút rất nhiều du khách và đã là đối tượng miêu tả của nhiều nhà báo. Tôi đã đến Đồng Văn, ngủ lại một đêm ngay tại nhà một người dân Đồng Văn chính cống. Ông Bọc ở Đồng Văn đã hơn bốn mươi năm, hành nghề chữa răng, nhà ngay cổng chợ. Một ngôi nhà cũ kỹ, rêu phong, tưởng như thời gian ngấm vào từng cái vết nứt ở tường nhà. Nhưng đi vào bên trong, qua cái gian nhà cũ ấy thì lại là gian nhà hiện đại, lát gạch men, bê tông toàn khối. Ông Bọc kể, xây một ngôi nhà ở Đồng Văn thì chi phí gấp ba lần ở Hà Giang, vì mọi thứ vật liệu đều phải chở ở Hà Giang lên đây.

Chợ Đồng Văn cổ kính ngay từ vật liệu xây dựng, kiểu những gian nhà lớn như quán chợ ấy đã hầu như mất hẳn ở miền xuôi. Kiểu họp chợ như ở Đồng Văn, cũng mất dần ở các làng quê Bắc Bộ. Thành ra, chợ Đồng Văn gần như một bảo tàng về nếp sống người dân miền Bắc bấy nhiêu năm.

cho-dong-van

Đặc sắc ở chợ Đồng Văn là màu sắc chói loá của váy áo. Người Mông, người Tày, người Dao, người Nùng, người Hoa... khắp nơi cứ chủ nhật là đến chợ. Đi chợ hay là đi hội không khác nhau là mấy. Những ngôi nhà phố chợ như nhà ông Bọc đều mở cửa, người đi chợ cứ tự nhiên vào soi gương, thay cái áo mới. Ông Bọc cũng vui vẻ không khó khăn gì, nói dăm câu tiếng dân tộc của người khách. Thật là một nếp sinh hoạt thuần hậu, chất phác có lẽ tự ngàn xưa vẫn vậy.

Tôi và Dương Kim Liên đi quanh phố Đồng Văn xem người ta đi chợ. Hồi những năm bảy mươi, Liên đã đi chợ ở đây, thú vị nhất là mang tiền mới đi mua bán, vì nếu có tiền mới, người bán sẵn sàng bán rẻ. Bây giờ thì người dân tộc Đồng Văn vẫn chất phác, nhưng đã biết giá trị của đồng tiền qua số đếm chứ không phải là tiền mới hay tiền cũ. Tại Đồng Văn này, chợt tôi nghĩ đến Sa Pa. Cũng những người Mông với chợ truyền thống miền núi, nhưng người Mông Sa Pa đã sống với thị trường và mất cái tính thuần hậu mất rồi, hoặc giả đã bị mang tiếng là tinh quái. Nếu anh muốn chụp ảnh với người dân tộc đi chợ Sa Pa, anh phải cho tiền, và họ không ngần ngại đòi tiền. Còn ở Đồng Văn, việc chụp ảnh không ảnh hưởng gì đến chuyện người ta đi chợ. Tôi bỗng buồn khi nghĩ đến cảnh một hai chục năm nữa, Đồng Văn cũng tiến lên bằng với Sa Pa...

Kim Liên đi tìm con phố có huyện đội Đồng Văn khi xưa, nơi có một rừng đào tự nhiên, khi mùa xuân về, hoa đào nở trùng trùng điệp điệp. Ký ức tuổi thơ của cô về Đồng Văn là màu hoa đào tươi tràn ngập phố núi. Bây giờ thì phố xá vẫn trồng đào, nhưng không còn đâu rừng đào tươi thắm ngày nào. Sau chiến tranh, mọi sự đều như phải làm lại, cả cái vườn đào của người Đồng Văn cũng vậy.

cao-nguyen-da

Trên đường trở lại Hà Giang, đi qua vùng đá lởm chởm, đá như chông như mác, đá mọc như măng như nấm, đá ngồi như cóc như ếch... tôi cứ có cảm giác phấp phỏng bất an vì bất chợt thấy một lò vôi đang cháy nghi ngút và bên cạnh nó một khu núi be bé đã bị phá đi lởm chởm. Quê tôi Kinh Môn, Hải Dương, người ta đã ăn đi cả một vùng núi non bề thế. Thế thì nơi này, nếu họ khai thác đá, có thể cũng sẽ hết chứ sao? Nếu Hà Giang hết đá núi, Hà Giang sẽ còn gì?

Một hốc đá có một nắm đất cũng mọc lên một cây ngô. Người Đồng Văn đã trồng ngô để tự nuôi sống một cách khó nhọc như vậy. Sáu tháng không mưa, lấy nước trong hốc núi. Cuộc sống khắc nghiệt vô cùng. Làm cảnh cho người tứ xứ mà mình vẫn nghèo khó quá. Câu hỏi lớn từ thời những cuộc chiến thuốc phiện, đến cuộc chiến giai cấp, rồi đến cuộc chiến sô–vanh dân tộc lầm than đã tàn phá cảnh quan và tâm hồn con người ở chính nơi cao nguyên đá này. Bây giờ của tin còn một chút này, đất nước còn Đồng Văn, không biết có gìn giữ được Đồng Văn bản sắc bao lâu nữa?