Print this page

Một ngày Ni thất

thien-vien-tay-thien

Đón Pháp vương Lạt Ma

Chúng tôi đến chân núi Tây Thiên là khoảng hơn 3 giờ chiều. Đã có rất nhiều người tụ tập để đón một vị Pháp vương Tây Tạng và các Lạt Ma. Mọi người đều biết ông Pháp vương này sẽ lên núi, đến Chùa cô, rồi nghỉ tại Am Ni Thất, nên nhiều người đã nườm nượp lên núi từ sáng. Khi chúng tôi đến chân núi, nghe nói trên núi đã có mấy ngàn người...

Chúng tôi là đoàn làm phim do một nhóm Phật tử thuê ghi lại một số hoạt động của Pháp vương để làm tài liệu tu tập và tham khảo. Trong Thông bạch, thấy nói Pháp vương là hoá thân của Phật bà quan âm, nên qua trò chuyện chúng tôi phát hiện ra nhiều người đến đây chỉ vì tò mò, hiếu kỳ, chứ không vì tín ngưỡng thực sự. Có người hiểu ông ấy là Vua, có người bảo ông là Phật sống, có người lại bảo ông ấy là Pháp sư trừ tà... Khoảng 4 giờ chiếu, đoàn làm phim chúng tôi bắt đầu lên núi.

Trên đường lên Ni Thất, khoảng hơn 6 cây số đường đèo núi, có nhiều người nườm nượp xuống núi. Không phải mùa lễ hội, nhiều người lên núi, đợi mãi không thấy Pháp vương nên trở về. Khi chúng tôi đến vùng Chùa cô, từ đó đi vào Ni Thất, chúng tôi mới thấy việc nhiều người trở ra cũng là may, vì khu vực Pháp vương nghỉ lại, giảng pháp rất nhỏ bé, không thể có chỗ chứa cho rất nhiều người được. Do vậy, đến sẩm tối, khi đoàn Pháp vương đến nơi, chỉ còn khoảng vài trăm người, thì đó phần lớn là phật tử mà tín ngưỡng đã giữ chân họ lại là chính và họ rất hiểu về Pháp vương và dòng thiền Mật tông Tây Tạng.

Đây là một khu vực sâu trên khu vực dãy Tây Thiên. Đầu nguồn suối, có một khu bằng phẳng nhưng hẹp, bàn tay con người đã làm thành mấy mức bình độ. Trên đó dựng vài dãy nhà tranh. Có một cái nhà khá lớn, hai tầng kiến trúc như nhà sàn lớn có thể hội họp vài chục người đến hơn trăm người. Kiểu nhà mái tranh, toàn bộ tường gỗ đơn sơ. Đây là nơi tu tập, học hành của mấy chục ni cô. Bình thường, không có tăng, mà chỉ có ni. Xung quanh mấy dãy nhà đều trồng hoa. Đâu đâu cũng thấy hoa.

Pháp vương Gyalwang Drukpa năm nay 42 tuổi, ông được lên ngôi Pháp vương nhờ phương thức tuyển chọn truyền thống Phật giáo Tây Tạng. Năm lên 6 tuổi, ông đã được một thày Pháp vương ấn chứng rằng ông chính là đầu thai của vị Pháp vương thế hệ trước kia. Con người cả đời tu hành này khi đến Ni Thất Tây Thiên đã nói trong đoạn đầu bài giảng pháp: "Tôi ngạc nhiên thấy nơi tu hành của các ni cô, thật là một nơi thích hợp để tu đạo, thân thiện với môi trường, tạo ra cảm giác yêu đời, đúng với tư tưởng nhập thế, độ chúng sinh của Phật Thích ca"

Đêm Ni thất

Pháp vương Gyalwang Drukpa lên đến Ni Thất liền cầu kinh. Đoàn các Lạt Ma Tây Tạng và những người đi theo khoảng năm chục người, cộng với các ni cô và khoảng vài trăm phật tử cùng đọc kinh. Tiếng đọc kinh làm thành một dàn âm thanh vang khắp núi. Trong khi hành lễ, có khoảng hơn một chục Phật tử và chừng ấy ni cô làm công tác hậu cần. Tôi thấy mấy ni cô, lúc trước đã gặp khi xuống núi, lại lên núi khi tháp tùng phái đoàn, bây giờ lại đi lại ngược xuôi như không có chuyện mệt. Trong khi đó, phần lớn Phật tử kể cả bọn thanh niên trẻ lên đến nơi đều kêu mỏi...

Ni cô Tường Vân cho chúng tôi biết, toàn bộ nhà cửa, công trình xây dựng ở đây phần lớn là do bàn tay các ni cô xây dựng nên. Cát lấy dưới suối. Điện có máy phát nhờ nước suối. Dựng nhà, xếp đá làm sân đều do các ni cô làm cả. Chuyện đi hơn sáu cây số đường núi xuống chân núi vác gỗ lên là thường.

Hành lễ xong là khoảng 9 giờ tối, phần lớn Phật tử ngủ lại khu Ni thất. Có một hai ni cô đi suốt lượt, hỏi mọi người có cần giúp đỡ gì không. Cơm thì nhà chùa có cơm chay, còn chăn chiếu thì chỉ có hạn, chỉ có thể cho các cụ già mượn. Một bắp ngô dưới chân núi bán ba trăm đồng, lên đến Ni Thất thì bán một ngàn rưỡi. Nhưng nhà chùa thì có thể phát không, song phần lớn Phật tử tự túc, bảo không làm vướng bận đến nhà chùa. Rất lạ lùng. Bỗng nhiên ở đây, tình thương mến của con người bộc lộ rất thuần hậu, người ta ít nghĩ đến mình hơn, mà nghĩ đến mọi người.

Chúng tôi vác máy đi tìm chỗ ngủ. Đi đâu cũng có thể đụng phải một đám người nằm trong đống chăn. Chân cầu thang cũng có, xó xỉnh nào cũng có người nằm. Người ta coi chuyện ngủ nghê chả là gì. Ngó đầu ra một ông trông rất quen, hoá ra ông ấy là một giảng viên đại học ở Hà Nội, tôi đã gặp lúc đi lên núi. Ông này đi nước ngoài như đi chợ, ở mòn các khách sạn vài sao, bây giờ chui rúc ở một góc núi, mặt cứ tươi tỉnh như không.

Suối bên cạnh rì rầm một thanh âm hoang dã tự nhiên, đều đều ru người ta ngủ rất nhanh. Các ni cô là người đi ngủ muộn nhất. Ni cô Tường Vân bảo: "Hôm nay có khách đông, nhà chùa ngủ muộn. Còn bình thường ngủ sớm, dạy sớm mới là khoa học". Muộn, nhưng tôi nhìn qua ánh điện sang ni thất, vẫn thấy các ni cô niệm Phật im phăng phắc rất lâu mới đi ngủ.

Hành lý để lung tung không sợ mất trộm. Đêm có thể lần ra suối không sợ bị bắt nạt. Cuộc sống ở nơi heo hút mà thanh bình, lành mạnh. Chỉ có thể có ở vùng đất của các ni cô.

Lên núi

Sáng sớm, khi hơi nước còn bốc mờ mờ trên khe suối, đã nghe thấy tiếng mõ cốc cốc. Rồi tiếng đọc kinh đều đều trong vắt. Kẻng báo thức. Nhiều Phật tử còn ngủ lăn lóc, các ni cô đã đi lại, làm lụng từ lâu rồi. Suối buổi sáng nước trong văn vắt. Dòng nước nguồn còn được đưa qua ống nhựa dẫn xuống dưới núi. Thứ nước nguồn không ô nhiễm, không cần qua xử lý mà đảm bảo tinh khiết. Một "thổ công" ở đây, anh ta bán hàng ven đường lên núi chúng tôi thuê vác máy, đã kể rằng trước đây có cụ già vào núi sống không biết tự bao giờ, thọ hơn một trăm tuổi. Chuyện chẳng có bằng chứng gì, cứ khơi khơi, mà ai cũng tin cả. Bởi vì sáng như sáng hôm ấy, chưa bao giờ tôi thấy không khí sạch như thế, nước tinh khiết như thế, âm thanh của suối, của chim chóc lại hoang sơ thân thiện như thế.

Khi vừa ăn sáng quáng quàng xong thì mọi người đã chạy nhao nhác. Pháp vương và các ni cô đã đi theo đường sau những dãy nhà lên núi. Họ đi theo đường hẻm, lên cao hơn. Lên tận đỉnh một ngọn núi mà Ni Thất dựa lưng vào. Trên đường hẻm rất cheo leo, đi qua những khu ruộng bậc thang nhỏ đã được làm phẳng trồng rau. Tức là mỗi khi làm vườn, các ni cô đều phải trèo leo để lên núi. Mệt, đoàn Phật tử thở hổn hển, còn các ni cô thì im lặng đi thoăn thoắt. Các tăng cũng leo nhanh, có lẽ đời sống tu hành khiến người ta khoẻ khoắn. Trên núi, nơi có một khoảng bằng phẳng rất rộng, dự kiến sẽ xây dựng một ngôi chùa. Nơi có một cây tùng cổ thụ hàng trăm năm. Phải rồi, Ni thất hiện nay không có chùa. Chùa cô thì phải xuống núi khoảng 1 cây số. Nếu dựng chùa nơi đây, quả thật đắc địa.

Pháp vương làm lễ Hộ ma, đuổi tà ma và ấn chứng cho một phiến đá sẽ làm móng chùa. Hành lễ suốt mấy tiếng đồng hồ. Mặt trời gần đến đỉnh đầu mới xong. Khi chúng tôi xuống đến Ni Thất, đã thấy các ni cô chuẩn bị cho buổi đọc kinh trưa.

Suy tư một chút

Trong số các ni cô, tôi chỉ tiếp xúc được với một ni cô Tường Vân, vì có lần tôi đã gặp ni cô khi làm báo Phật học. Dường như cuộc sống tu hành khiến các ni cô kín tiếng. Có người đi tu vì lánh đời, ghét người, chán sống... Nhưng rồi vào cuộc đời tu tập, lại tìm thấy ý nghĩa cuộc sống ở một phía khác của cuộc đời. Giáo lý nhà Phật nguyên bản là nhập thế, giúp đời. Đó là một bộ giáo lý vừa duy tâm, vừa duy vật, là một loại vũ trụ quan của con người, do vậy mà khi thấm nhuần giáo lý nhà Phật, người tu có nhân sinh quan, có mục đích sống rõ ràng... Ni cô Tường Vân tôi thấy là một con người toàn diện, cơ thể khoẻ khoắn, dáng chuẩn, mặt tươi tắn mà kiến thức rất sâu rộng, giao tiếp đàng hoàng, tử tế. Tôi nghe nói ở nước láng giềng, thanh niên phải có thời gian mấy năm đi tu ở chùa. Khi tiếp xúc với các ni cô, mới thấy nếu có điều đó thật thì hay biết bao nhiêu.

Vác máy xuống chân núi sau một ngày ở Ni Thất Tây Thiên, có mệt mỏi, nhưng tôi thấy tinh thần thoải mái. Nếu cuộc đời này, Phật giáo lấy lại được vị thế đồng hành cùng dân tộc như hàng trăm năm trước, thì chỉ có lợi cho dân cho nước. Mỗi người sẽ có một bờ bến tinh thần để cân bằng tâm lý, cộng đồng sống có nhân bản, thân thiện với môi trường...

Các học giả dự đoán thế kỷ 21 là thế kỷ tôn giáo, có lẽ ứng nghiệm ngay tại Việt Nam những năm đầu thế kỷ này. Chuyến đi của chúng tôi chứng minh rằng Phật giáo hội nhập quốc tế nhanh và sâu rộng hơn hẳn nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội. Nguồn lực trong dân thể hiện trong lễ hội tôn giáo thật vô cùng lớn. Lễ đón Pháp vương Tây Tạng được các Phật tử tổ chức, nhà chùa chỉ cầm trịch, mà rất long trọng, đồng tiền bỏ ra không ít, song không lãng phí. Nhà chùa không bao biện, mà kiểm soát được tình hình. Cách tổ chức này, so với nhiều lễ hội tầm quốc gia, có phần chuyên nghiệp và quy củ hơn.

Tại ni thất, cuộc sống đạo hạnh của các ni cô có tầm ảnh hưởng nhất định đến xã hội. Đó là môi trường giáo dục đáng được cả xã hội biết đến. Nhà nước nên đầu tư và khuyến khích những hình thức tu tập của Phật giáo như thế. Tại sao thời Lý-Trần, cả nước là Phật tử mà đất nước cường thịnh, đánh thắng oanh liệt giặc ngoại xâm?
Một ngày ni thất Tây Thiên, tôi tìm thấy lời giải của nhiều vấn đề vốn đã đặt ra như những câu hỏi lớn...