Print this page

Biển thì thầm

Hồi những năm tám mươi của thế kỷ trước, Đồ Sơn rất hoang vắng, cho dù việc cấm vào khu 2 đã bãi bỏ, thì người ta đi biến cũng không đông như bây giờ. Một lần, thủ trưởng của tôi, Trung tá Chủ nhiệm Hoá học Nguyễn Trung Tuần nhân có việc ra Đồ Sơn, ông đã bảo tôi cùng ông đi sâu vào Khu Ba. Hồi đó, khu vực này là bãi tắm bé tý, đi hết đường, chỉ có một cái nhà, sau này sửa lại chính là làm sòng bạc. Ông đứng một hồi, nhìn ngắm chán chê, rồi nói: "Đây là nơi xuất phát của những con tàu không số".

Tôi khi đó mới 22 tuổi, trung uý mới tò te ở Bộ Tư lệnh Hải quân, lần đầu tiên nghe thấy cụm từ "tàu không số'. Ông Trung tá Hải quân khi đó khoảng gần sáu mươi, không liên quan mấy đến hoạt động của đường Hồ Chí Minh trên biển, nhưng ông ấy công tác ở Bộ Tư lệnh Hải quân, nên những câu chuyện bè bạn và ký ức về những chuyến tàu không số còn tươi mới. Ông đã kể cho tôi vắn tắt một vài việc, tôi nghe và cảm thấy đúng như huyền thoại, và trộm nghĩ không biết ông ấy có bịa ra không. Khi đó phương tiện thông tin đại chúng còn kém, không có mấy ai biết một cách hệ thống về những chuyến tàu chở hàng chi viện miền Nam. Gương anh hùng của Phan Vinh đã lên báo chí, nhưng chỉ có khúc giữa, đó là việc tàu hải quân ta đánh nhau với địch ở chiến trường miền Nam mà thôi.

Sau này, khi làm bộ phim tài liệu nhựa "Tiền cụ Hồ", tôi lại đi cùng đạo diễn đại tá Lê Thi đến quay phim ở bến Nghiêng và cột mốc lưu niệm nơi xuất phát những chuyến tàu không số. Căn nguyên của chuyện đó là vì có một sự thật nho nhỏ: Trong những chuyến tàu không số, không chỉ có vũ khí mà còn có cả tiền Việt Nam cộng hoà, ngoại tệ chi viện cho chiến trường miền Nam. Đạo diễn Lê Thi cũng chính là đạo diễn làm bộ phim tài liệu đầu tiên về đường Hồ Chí Minh trên biển. Ông đã mò vào kho tư liệu, đưa lên phim những thước phim rất quý báu, trong đó có hình ảnh của liệt sĩ Đặng Thuỳ Trâm. Xen giữa lời bình của nhà văn Nguyên Ngọc, là lời phát biểu của sĩ quan hải quân, nhân chứng đã được Đặng Thuỳ Trâm cứu chữa. Sau này, độc giả cả nước biết được rằng, bộ phim ấy chiếu lại đúng ngày giỗ Đặng Thuỳ Trâm, cả nhà cô đã nhận ra cô, từ đó câu chuyện về Đặng Thuỳ Trâm và cuốn nhật ký dần dần hiện ra với công chúng. Ngay cả khi đã chỉ còn ký ức, con đường mòn Hồ Chí Minh trên biển với những chiếc tàu không số tiếp tục viết nên những huyền thoại mới. Tôi cứ nghĩ tỷ mẩn nghĩ rằng, mỗi sự kiện lịch sử dân tộc có thể ví như những mặt trời nhỏ, nó tiếp tục phát xung năng lượng xuyên thời gian, chiếu rọi đến tận sau này, đến thời hiện đại. Sự kiện đường mòn Hồ Chí Minh là một mặt trời như thế.

Hãng phim Hội Nhà văn cũng có một cơ duyên, gần đây đã hỗ trợ Đạo diễn Nhà văn Minh Chuyên làm sê-ri phim 20 tập "Đường Hồ Chí Minh trên biển". Nếu chỉ ghi chép lại những điều anh Lê Thi và Minh Chuyên nói, thì có thể viết nên những bộ sách. Nhân chứng của một huyền thoại dần dẫn đi vào cõi vĩnh hằng, phải chăng những ghi chép còn lại về một sự kiện cách chúng ta nửa thế kỷ là một việc hết sức quan trọng.

Đạo diễn Lê Thi đã kể cho tôi nghe câu chuyện cảm động khi anh làm phim Đường Hồ Chí Minh trên biển. Một người vợ có chồng đi tàu không số, chỉ gặp chồng bí mật những ngày chồng trở về bến, rồi lại hối hả ra đi. Chị có thai, cái thai cứ dần lớn lên. Điều tiếng xóm giềng chị chịu vì bà con chỉ thấy những người lính cộng hoà qua lại đó. Nếu quân đội Việt Nam cộng hoà có cuộc điều tra nghiêm túc, thì chúng có thể tìm ra nguyên nhân của việc một phụ nữ có chồng tập kết bỗng dưng có chửa. Đôi khi, những chiến lược, chiến thuật được vạch ra hoàn hảo trên bàn các vị tướng, có thể đổ vỡ chỉ vì một nguyên nhân thế thái nhân tình. Bất luận kết quả thế nào, dù có bị lộ hay không bị lộ, thì con người trong cuộc chiến đấu ấy là cá thể chịu hy sinh ghê gớm. Câu chuyện ấy tôi đã viết thành một truyện ngắn. Bỗng nhiên không thể nghĩ ra một cốt truyện có những số phận và kịch tính như thế.

Ngày nay, chúng ta chỉ nhìn thấy kỳ tích, có đong đếm được số người hy sinh, nhưng chắc hẳn không đo được chiều sâu chiến công vĩ đại của những chuyến tàu không số. Họ là những người lính đương đầu trên chiến trường, đằng sau là một lực lượng chỉ huy chiến lược, là những công việc đóng tàu, chuẩn bị bến bãi, là những người vợ hy sinh thầm lặng. Có lẽ nói không ngoa, những đau khổ hy sinh, cũng như chiến công vĩ đại chỉ có thể so sánh cùng biển cả.

Ngày hôm nay, nghe những người lính hải quân đã về hưu của những chuyến tàu không số nói: "Nếu bây giờ hải quân cần, chúng tôi vẫn sẵn sàng". Nghe điều đó, chắc hẳn mỗi người Việt Nam chúng ta đều cay mắt. Cuộc chiến đấu vì biển đảo ngày nay phải được trao cho thế hệ trẻ hôm nay và phải được coi là nhiệm vụ của toàn dân. Những người đang sống phải có nghĩa vụ xứng đáng với những thế hệ đi trước. Họ tiếp tục tiếp bước con cháu với di sản tinh thần để lại.

Hơn tám trăm năm trước, nhà thơ hoàng đế Thái tông Trần Cảnh đã viết "Người lính già đầu bạc, còn kể chuyện Nguyên Phong" (Bạch đầu quân sĩ tại, vãng vãng thuyết Nguyên Phong). Chiến thắng quân Mông Cổ năm Nguyên Phong (cuộc chống Mông Cổ lần thứ Nhất- 1258) cũng là một huyền thoại, mà những người lính già kể mãi cho con cháu. Chắc chắn là chính con cháu những người lính già ấy, khi làm nên chiến thắng Bạch Đằng năm Trùng Hưng, trong tâm khảm còn tươi rói câu chuyện thắng quân Mông Cổ năm Nguyên Phong.

Ngày nay chúng ta vẫn nghe thấy tiếng thì thầm kể chuyện của họ. Những người lính già đầu bạc phơ của các đoàn tàu không số chắc chắn cũng đã nghe thấy tiếng vọng ấy và ngày nay đang kể câu chuyện huyền thoại về thời Nguyên Phong mới.

Có một lần, tôi và một anh bạn có dịp nằm ở quân cảng Sơn Trà. Khi đó chúng tôi là những sĩ quan đến để khai thác khí tài hoá học trên các tàu chiến của hải quân Vùng 3. Đường từ Thành phố Đà Nẵng đến Sơn Trà còn là con đường qua một vùng nông thôn hoang vắng. Rừng Sơn Trà suốt đêm cứ ầm ì một tiếng động rì rầm rất lạ. Một đại uý hải quân cũng ở trạm khách nói với tôi: " Đó là tiếng sóng biển dội lên. Những vùng rừng ven biển thường có âm vang như thế". Hôm sau, tôi gặp một người dân đi rừng, vác một bó củi khô xuống núi, thì ông ấy bảo: "Sóng nào ở rừng, thế mà anh cũng nghe. Chẳng qua mưa tạnh rồi, nhưng rừng thì vẫn tiếp tục mưa mãi. Anh cứ vào rừng mà xem..."

Câu chuyện đó cứ theo tôi mãi. Sau này, khi tôi quay lại Sơn Trà một ngày Đà Nẵng hiện đại, phố xá san sát thành quận nội thành gần đến cảng Tiên Sa, tôi không còn nghe thấy tiếng rì rầm trên rừng Sơn Trà sau trận mưa như xưa nữa. Nhưng tiếng rì rầm của biển cả thì cứ vang vọng mãi trong tâm trí tôi. Lẽ nào, những người ngày nay không nghe thấy âm vang của sóng biển dội lên những cánh rừng ven biển, dội lên bờ bãi đất đai.

Hiện tại, nếu đi dọc biển Việt Nam hôm nay, sẽ thấy những hoạt động du lịch, đánh cá hay khoan dầu nhộn nhịp. Chúng ta nhìn sâu vào biển cả, chắc hẳn sẽ thấy Trường Sa kiêu hùng và Hoàng Sa còn chìm trong mù mịt... Nhưng liệu có phải tất cả chúng ta đều nghe thấy tiếng thầm thì của biển kể câu chuyện của nó từ muôn đời trước, đến ngày nay và sẽ đến muôn đời sau nữa. Trong câu chuyện phong hoá từ khai thiên lập địa, có những cổ tích mới một ngàn năm từ thời Đinh Lê, thời Nguyên Phong hay Trùng Hưng, một trăm năm hay năm mươi năm của đoàn tàu không số. Những chuyện một đời người còn nghe thấy từ nhân chứng sống.

Như chuyện đường Hồ Chí Minh trên biển chắc hẳn đã hoà vào tiếng thầm thì của sóng biển, nó sẽ kể mãi cho thế hệ sau... Ai sẽ chuyên chở và gìn giữ tiếng thầm thì ấy của biển cả, nếu không phải chính những con người hậu duệ của người lính Nguyên Phong, hậu duệ của các chiến sĩ tàu không số.