Print this page

Phật giáo góp phần đoàn kết dân tộc

Theo các nhà nghiên cứu kinh Phật, Kinh "Kim cương bát nhã ba la mật" (thường gọi tắt là Kinh Kim Cương") do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp tại tịnh xá trong vườn của Thái tử Kỳ Đà nước Xá Vệ là một bộ kinh có tính biện chứng. Trong bộ kinh này, Đức Phật trả lời câu hỏi: "Làm sao hàng phục vọng tâm, làm sao an trụ chân tâm?" Như Lai Phật Tổ đã khuyên chúng sinh muốn hàng phục vọng tâm, an trụ chân tâm, thì phải giữ tâm thanh tịnh, chớ nên vọng chấp đến sắc trần, không trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần, pháp trần. Không chấp, đó là thái độ bao dung của nhà Phật dưới mắt người trần, từ đó mà đạt tới tính từ bi cao cả. Thực ra, ý mà Phật tổ dạy, chính là triết lý biện chứng về vạn vật: mọi vật đều vận động, biến đổi từng giây, từng phút, bởi vậy nó vừa là nó, lại không là nó. Tất cả là tương đối và đó là tuyệt đối. Nếu vậy, sao lại có thể chấp một điều gì? Nguyên nhân căn bản của sự phân chia, dị biệt là do suy xét sự vật khi nó ở trạng thái khác biệt. Song, sự khác biệt đó không bao giờ đứng yên như thế mãi, mà nó cũng biến đổi. Căn bản nguyên lý của nhà Phật khuyên con người không chấp, bao dung hay nói theo ngôn ngữ đương đại là đoàn kết, bắt nguồn từ chính triết lý xây dựng nên lâu đài Phật giáo.

Vì sao Đạo Phật có sức sống lâu dài? Có lẽ vì Đạo Phật quan niệm về con người một cách thực tế. Đời là khổ, sống là khổ. Đó không phải thái độ bi quan của nhà Phật, mà đó là triết lý về đời sống nhân sinh. Phật giáo phân tích cuộc đời theo một lớp cắt, đó là khổ. Học thuyết Phật giáo dựa trên sự nghiên cứu một tiền đề về nội dung sống rất sâu rộng của con người, đó là khổ. Đó là thái độ dũng cảm, nhìn thẳng vào thực tế cuộc sống cuả Phật giáo. Không tô hồng, không bi phẫn. Đạo Phật là một học thuyết thực tế. Tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của khổ, Phật giáo chỉ ra Tập đế. Đó là vì dục, do nghiệp. Con người nguyên bản là giống nhau, người ta chỉ khác nhau do nghiệp. Phật giáo chỉ ra con đường thoát khổ là Diệt đế. Trên con đường dằng dặc đến Niết bàn, Phật giáo khuyên ta đi con đường định tuệ. Hành định với mục đích là tuệ, con người xích lại gần nhau. Tuệ là diệt trừ tham, sân, si. Tuệ hình ảnh như ngọn đèn chiếu đến đâu, xua tan bóng tối đến đó. Phật giáo không chỉ cho người ta thế giới sung sướng kiểu quan niệm Thiên đàng trên trần thế, nhưng Phật giáo khuyên mỗi con người sửa tâm, chính tâm, yêu đồng loại, bao dung.

Phật giáo có lẽ là thứ tôn giáo đến Việt Nam gắn bó hữu cơ trong bước đường lịch sử lập nước và giữ nước. Đầu tiên, Phật giáo phù hợp với hoàn cảnh của một thời kỳ, đó là mục đích cứu khổ chúng sinh và cố kết cộng đồng. Lịch sử hình thành tư tưởng và văn hoá dân tộc Việt không thể tách rời con đường thăng trầm Phật giáo. Vào buổi sơ khởi Nhà nước phong kiến tập quyền, Phật giáo góp phần quan trọng vào nền tảng tri thức xã hội Lý- Trần. Các nhà sư Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi khuyên người ta "sống có đức", tin vào luân hồi nghiệp báo, không màng danh lợi, không chấp, một lòng tâm đức, bao dung "không giận quá nửa đêm". Tăng thống Huệ Sinh thế hệ thứ 13 dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi trả lời vua Lý Thái tông: "Pháp vốn không như pháp, chẳng có cũng chẳng không, nếu người biết như vậy, chúng sinh cùng Phật đồng". Theo "Thiền uyển tập anh", Thiền sư Đạo Huệ, thế hệ thứ 9 dòng Vô Ngôn Thông, trụ trì chùa Quang Minh (Phật tích), khi thị bệnh, than: "Loạn lạc tứ tung, do đâu mà đến?" Rồi đọc kệ: "Đất nước gió lửa thức, nguyên lai tất cả không, như mây tan rồi hợp, Trời Phật chiếu vô cùng". Chính nhà sư này quan niệm "sinh không từ đâu đến, tử cũng chả về đâu", lẽ tử sinh có gì mà lớn lao đến mức phải chấp nhau đến thế? Phật giáo thời Trần có lẽ là một giai đoạn hoàng kim sống trong lòng dân tộc. Triết học Thiền Trần Thái tông chủ yếu đề cập đến cái tâm của mỗi cá nhân, tâm là gốc của mọi thiện ác. Đạo đức Trần Thái tông là đạo đức hoàn thiện cá nhân, một vấn đề có tính vĩnh cửu, có tính thời sự kể cả ở thời nay. Có lẽ điều đó giúp cho nhà Trần đoàn kết dân tộc, cứu nguy xã tắc. Ông vua anh hùng Trần Nhân tông, tổ thứ nhất Thiền phái Trúc Lâm đã đưa Phật giáo trở thành quốc giáo nhập thế tích cực nhất mọi thời, là thời kỳ toàn dân đồng lòng, tư tưởng nhất trí. Với việc khuyến pháp dạy dân "thập thiện", có lẽ Trúc Lâm đệ nhất tổ đã là người cụ thể hoá một bước những giáo lý nhà Phật để đi vào dân chúng. Trong 10 điều thiện, có 4 điều thiện về lời nói: không nói dối, không nói lời chia rẽ, không nói lời độc ác, không nói lời bẩn thỉu. Có thể thấy, Thiền từ Thái tông đến Nhân tông đã đi một đoạn dài từ "tu đạo" đến "hành đạo".

Đã có nhiều công trình nghiên cứu về Phật giáo nước ta. Bài viết này chỉ muốn chia sẻ một vài suy nghĩ nhỏ... Tổng quan, nhìn nhận một cách phổ thông, có người nhận nhận xét: Khi nào đình chùa bị phá, ấy là thế nước đang suy, cộng đồng chia rẽ; còn thời kỳ đình chùa được tu bổ, tô tượng đúc chuông nhiều, chính là lúc dấu hiệu đất nước đang hưng thịnh, dân tộc đoàn tụ. Phật giáo Việt Nam từ xưa đến nay đồng hành cùng dân tộc, hướng thiện, có nhiều điểm tương đồng với văn hoá truyền thống và ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống cộng đồng. Dục vọng phân chia cộng đồng, chứ nguồn cội dân tộc là một. Quan niệm Phật giáo coi con người nguyên bản như nhau, vì dục mà khác nhau, mang khổ. Giáo hội Phật giáo Việt Nam bao dung, không chấp người đời ở phía bên nào, giải oan và cứu khổ hết thảy chúng sinh, chứ không có thông điệp phân biệt bên này bên nọ. Nhân sinh quan ấy gần với đạo lý truyền thống Việt Nam tất cả là con Mẹ Âu Cơ, có nghĩa "đồng bào". Đó phải chăng là con đường tiếp nối, kế thừa tư tưởng Phật giáo truyền thống đã được gieo trồng xanh tươi trên đất nước Việt Nam.