Theo Đại Việt sử ký toàn thư, khi cuộc kháng chiến chống quân Nguyên năm 1284 mới bắt đầu, quân dân Đại Việt dù đã được chuẩn bị chống giặc, nhưng liên tục những trận đánh đầu tiên, đã bị quân Nguyên đã chọc thủng phòng tuyến phòng ngự. Đại Việt sử ký toàn thư chép vắn tắt thế này: "giặc đánh vào các ải Vĩnh Châu, Nội Bàng, Thiết Lược, Chi Lăng, Quan quân đánh bất lợi lui về đóng ở bến Vạn Kiếp. Lúc đó, vua ngự thuyền nhẹ ra Hải Đông, chiều rồi mà vẫn chưa ăn cơm sáng. Có người lính là Trần Lai dâng cơm gạo xấu, vua khen là trung, ban cho chức thượng phẩm, kiêm chức tiểu tư xã xã Hữu Triều Môn ở Bạch Đằng".
Sau trận Nội Bàng, thế giặc đang đắc thắng, một cánh quân trực chỉ Thăng Long, một cánh quân tiến theo đường thuỷ trực tiếp nhằm vào bản doanh Vạn Kiếp của Trần Quốc Tuấn.
Theo Lê Mạnh Thát phân tích trong tác phẩm nghiên cứu về Trần Nhân tông, "Có thể nói, nó cho ta thấy chủ trương tác chiến ban đầu của vua Trần Nhân Tông và Trần Hưng Đạo hình như là đưa quân lên chặn giặc ngay tại những vùng địa đầu biên giới của tổ quốc theo chiến lược Lý Thường Kiệt đã làm hơn 200 năm trước. Việc mặt trận Nội Bàng tan vỡ, do thế, đòi hỏi phải có những quyết định chiến lược mới, thay đổi chiến lược cũ trong việc đối phó với kẻ thù, phải có một phương án tác chiến mới mà có thể vua Trần Nhân Tông và Trần Hưng Đạo đã dự phòng. Vì vậy, vua Trần Nhân Tông phải trực tiếp đi gặp Trần Hưng Đạo".
Việc đi gặp Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn hẳn là việc làm rất gấp gáp, đến nỗi vua phải đi thuyền nhẹ, và đi suốt "đến chiều rồi mà vẫn chưa ăn sáng", tức là rất gấp gáp. Vua đã rời kinh đô, không đi "chính thức" bằng thuyền rồng, không có đội quân hậu cần theo nghi lễ cung đình.
Sử sách không ghi rõ cuộc hội kiến ở Hải Đông giữa vua và Quốc công tiết chế bàn bạc những gì, chỉ ghi liền sau đó rằng "Hưng Đạo Vương vâng mệnh điều quân dân các lộ Hải Đông, Vân Trà, Ba Điểm , chọn những người dũng cảm làm tiền phong, vượt biển vào Nam, thế quân lên dần. Các quân thấy vậy, không đạo quân nào mà không tới tập hợp. Vua làm thơ đề ở đuôi thuyền..."
Vua đề thơ ở phía đuôi thuyền của Quốc công, nhắc lại chuyện Cối Kê, và chỉ ra "Hoan Diễn do tồn thập vạn binh".
Ông Lê Mạnh Thát cũng phân tích, hẳn là cuộc họp Hải Đông, vua quan nhà Trần đã phải điều chỉnh chiến lược chống giặc, chuyển từ chống giữ từ xa kinh thành đến việc kháng chiến có thể bỏ kinh đô. Và, tại cuộc họp Hải Đông ấy, một nhiệm vụ quan trọng là khích lệ tinh thần quân sĩ, "thế quân lên dần", chuẩn bị lực lượng, động viên toàn dân chống giặc lâu dài, có thể tính đến "chiến khu" Hoan, Diễn.
Các học giả bàn bạc nhiều về cuộc gặp gỡ Hải Đông, song chưa thấy tài liệu nào chỉ ra là vua Trần gặp Quốc Tuấn ở đâu. Có tài liệu nói vua đến Vạn Kiếp để bàn việc với Trần Quốc Tuấn. Có lẽ, cái lý duy nhất là khi đó Vạn Kiếp là bản doanh của Trần Quốc Tuấn.
Song, cái lý vua đến Vạn Kiếp có thể lung lay, vì khi đó Vạn Kiếp là tiền duyên, cánh quân của quân Nguyên đang ở rất gần. Những sự kiện vua đi gặp Quốc công tiết chế xảy ra vào ngày 26 tháng Chạp, mà 10 ngày sau, ngày 6 tháng Giêng, quân Thoát Hoan đã đánh đến Vạn Kiếp. Như vậy, ngay từ ngày 26 tháng Chạp, tình hình Vạn Kiếp đã rất nguy ngập, để sau đó chúng đánh tới, thì Trần Quốc Tuấn phải nhờ có Yết Kiêu, Dã Tượng trung thành mới thoát được.
Bằng tài liệu và kết quả khảo sát điền dã gần đây, tôi cho rằng, nơi vua Trần Nhân Tông gặp Trần Quốc Tuấn là khu vực Bến Triều, gần động Kính Chủ, ngày nay thuộc huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
Ngày nay, đĩa danh Bến Triều được chỉ một khúc sông có bến phà trtên sông Kinh Thày, một đầu hữu ngạn là Kinh Môn, bờ tả ngạn là Đông Triều. Triều Môn chính là khúc sông này. Đây là khúc sông tiếp giáp ngã ba sông, một nhánh là sông Kinh Thày, một nhánh là sông Đá Vách, địa phương vẫn gọi chệch là Đá Bạch. Do khúc sông cổ họng của ngã ba nên có quan niệm đó là cửa sông, tên chữ là dùng chữ Môn ghép với chữ địa danh Triều. Một lưu ý rằng, đoạn sông Đá Vách chảy về phía hạ nguồn, qua huyện Thuỷ Nguyên có tên là Đá Bạc, qua cầu Đá Bạc bây giờ thì phìng to, từ đó gọi là sông Bạch Đằng chảy ra đến biển.
Khu vực Kính Chủ, thời Trần là nơi thuộc trang ấp An Sinh vương Trần Liễu. Đất trang ấp An Sinh thời Trần, ngày nay kéo dài từ khu vực An Sinh thuộc Đông Triều (Quảng Ninh) đến khu vực núi An Phụ huyện Kinh Môn (Hải Dương). Sau khi Trần Liễu, thân phụ Trần Quốc Tuấn qua đời, ông được thờ tại đỉnh núi An Phụ. Theo truyền thuyết dân gian trong vùng, hậu cung đền thờ chính là mộ đặt thi hài của Trần Liễu. Xét về thế thứ, hoàng hậu thời vua Trần Nhân Tông chính là con gái Trần Quốc Tuấn, cũng gắn bó với vùng trang ấp này. Trang ấp An Sinh của Trần Liễu thuộc huyện An Hưng, An Bang (Yên Hưng và Đông Triều ngày nay) và Giáp Sơn (Kinh Môn ngày nay) thời Trần, thuộc lộ Hải Đông.
Kính Chủ cách núi An Phụ khoảng 2km đường chim bay, là khu vực núi đá vôi, có nhiều động đá vôi, vốn là khu vực chùa chiền từ thời Lý, thờ Lý Thần Tông, sau này chùa Kính Chủ còn thờ Huyền Quang, đệ tam tổ Trúc Lâm. (những sự kiện này đều có ghi trong Đại Nam nhất thống chí)
Song, từ lâu, nhân dân ở vùng núi Kính Chủ đã lập đền thờ tách rời chùa trong động núi. Đền thờ là thờ riêng vua Trần Nhân Tông, vì theo truyền thuyết, vua Trần Nhân Tông đã đóng quân ở đây, điểm binh và chỉ đạo kháng chiến chống quân Nguyên. Song, năm 1967, do nơi này là nơi sơ tán của một số đơn vị xăng dầu, nền đã 8 lần bom Mỹ đánh vào khu vực động Kính Chủ, làm cho đền vua Trần bị đánh tan. Sau năm 1975, nhân dân trong vùng đã dựng lại ngôi đền nhỏ để thờ vua Trần Nhân Tông ở vị trí đền thờ cũ.
Động núi Kính Chủ có một bảo vật rất nổi tiếng, đó là bài thơ của Phạm Sư Mạnh, vị đại thần trải qua 3 đời vua Trần từ Anh tông, Minh Tông đến Hiến Tông. Làng Kính Chủ thời Trần đã là một làng nghề khắc đá nổi tiếng, nhiều bia Văn Miếu đều do thợ Kính Chủ khắc. Song, tấm bia Phạm Sư Mạnh lại không khắc kiểu chữ chân nghiêm ngắn, mà là kiểu chữ thảo chân phương. Tương truyền, thợ đá Kính Chủ đã khắc đá theo đúng nét bút của Phạm Sư Mạnh đề thơ vào đá. Phạm Sư Mạnh quê ở Hiệp Sơn, cũng thuộc huyện Kinh Môn bây giờ, cách Kính Chủ chừng 4km, nên thơ ông ngay từ câu đầu "hành dịch đăng gia sơn", cho ta biết ông "nhân việc quan lên núi quê nhà".
Toàn văn bài thơ như sau:
Hành dịch đăng gia sơn,
Kiều thủ vạn lý thiên.
Ðổ bằng nam minh ngoại,
Tân nhật đông nhạc tiền.
Yên Phụ thiên nhất ác,
Tượng Ðầu nhẫn cửu thiên.
Tằng tằng Tử Tiêu vân,
Hội phỏng An Kỳ tiên.
Húng húng Bạch Ðằng đào,
Tưởng tượng Ngô Vương thuyền.
ức tích Trùng Hưng Ðế,
Khắc chuyển khôn oát kiền.
Hải phố thiên mông đồng,
Hiệp môn vạn tinh chiên.
Phản chưởng điện ngao cực,
Vãn Hà tẩy tinh chiên.
Chí kim tứ hải dân,
Trường thuyết cầm Hồ niên.
Dòng lạc khoản: Trần triều nhất bách tứ thập tứ tự cửu nguyệt ngũ nhật. Nhập nội hữu nạp ngôn Hiệp Thạch Phạm Sư Mạnh phụng chiếu giản duyệt ngũ lộ chi binh, đăng Thạch Môn Sơn tác. Dương Nham Phạm Sư Mạnh thư.
Tạm dịch: Nhân đi việc quan, lên chơi núi quê nhà,
Ngẩng đầu nhìn trời cao muôn dặm.
Thấy chim bằng ngoài biển nam,
Ðón mặt trời mọc trước dãy núi phía đông.
Núi Yên Phụ chỉ cách trời một nắm tay,
Núi Tượng Ðầu cao chín nghìn mẫu.
Mây lớp lớp trên đỉnh Tử Tiêu,
Nhân dịp hỏi thăm tiên An Kỳ).
Sóng Bạch Ðằng cuồn cuộn,
Tưởng tượng tới thuyền của Ngô Vương.
Nhớ vua Trùng Hưng xưa,
Khoảng khắc làm chuyển đất xoay trời.
Hàng nghìn chiến thuyền ngoài cửa biển,
Muôn lá cờ lệnh trên cửa ải Hiệp môn.
Trở bàn tay đặt cõi bờ vào thế yên ổn,
Kéo nước sông Ngân rửa sạch vết tanh hôi.
Ðến nay nhân dân cả nước,
Nhắc mãi năm bắt giặc Hồ...
Lạc khoản: Triều nhà Trần năm thứ 144, tháng 9, ngày 5, Nhập nội Hữu nạp ngôn là Hiệp Thạch Phạm Sư Mạnh vâng lệnh nhà vua đi tuyển duyệt binh lính năm lộ, lên núi Thạch Môn, làm bài thơ này. Dương Nham Phạm Sư Mạnh viết.
Bài thơ là một bản hùng ca, niềm tự hào về núi non vùng quê hương Kính Chủ, nhưng đáng chú ý là chuyện Phạm Sư Mạnh nhớ lại sự tích vua Trùng Hưng "Hàng nghìn chiến thuyền ngoài cửa biển, Muôn lá cờ lệnh trên cửa ải Hiệp Môn. Trở bàn tay đặt cõi bờ vào thế yên ổn..."
Theo sách Đại Nam Nhất thống chí, sông Kinh Thày, tên cũ là Sài Giang, chính là một nhánh hợp với sông Đá Vách, đoạn thượng nguồn của Bạch Đằng Giang, gần ngay cửa Lục Đầu. Con sông này uốn khúc ngay bên cạnh núi Kính Chủ. Xét về phong thuỷ, nơi này sơn thuỷ hữu tình, nhưng cũng là đất dụng binh, là cửa ải quan trọng trên đường thuỷ từ biến vào Vạn Kiếp. Hình ảnh "muôn lá cờ lệnh trên cửa ải" nơi đây, cho thấy vùng này quả là vùng phục binh của quan quân nhà Trần. Việc này phù hợp với truyền thuyết dân gian rằng, vua Trần đã đến điểm binh tại đây.
Khu vực Kính Chủ lại cách bến Triều hiện nay khoảng 1 cây số, địa danh bến Triều ngày nay có thể lệch, không đúng hẳn với bến Triều Môn thời Trần, nhưng có sai lệch cũng không xa là bao. Như vậy, khu vực Trần Lai dâng vua cơm hẩm khi vua đến đây bàn việc với Trần Hưng Đạo được xác định rất chắc chắn. Nếu như vua đi Vạn Kiếp, thì không thể qua vùng này, vì từ Thăng Long đến Vạn Kiếp, phải rẽ ngay từ bến Bình Than.
Cần nói rõ mấy địa danh trong bài thơ của Phạm Sư Mạnh, núi Tượng Sơn và đỉnh Tử Tiêu đều thuộc dãy Yên Tử. Từ Kính Chủ, có thể nhìn thấy đỉnh Yên Tử trấn ngay trước mắt. "Hiệp Môn" là cửa ải núi Kính Chủ, vì nơi đây còn có tên Hiệp Thạch mà địa danh này chính Phạm Sư Mạnh lấy làm tên hiệu như ghi ở lạc khoản.
Cần nói rõ thêm rằng, đáng tiếc từ sau năm 1975, không rõ vì sao mà tấm bia Phạm Sư Mạnh lại bị vỡ một góc, trúng vào góc có lạc khoản. Song, do nổi tiếng, may thay, nội dung của tấm bia đã được các học giả ghi chép rất rõ trong các tài liệu nghiên cứu Hán – Nôm.
Khu vực núi Kính Chủ có lẽ vì thế, sau thời Trùng Hưng, trở thành khu vực núi thiêng, được nhân dân thờ phụng. Đó là khu vực thích hợp với vai trò tu tập của các Thiền sư, không phải vô cớ mà nhân dân lại thờ Huyền Quang, vị tổ thứ ba Thiền phái Trúc Lâm trong chùa chính và lập đền thờ vua Trần Nhân Tông tại chân núi. Sau thời kỳ Trùng Hưng, Thiền sư Huyền Quang đã có một thời kỳ tu ở chùa Côn Sơn thuộc Chí Linh, cách Kính Chủ khoảng 30 km, việc ông qua lại Kính Chủ và kết tập Kính Chủ vào tầm ảnh hưởng của Thiền phái Trúc Lâm là hoàn toàn xác đáng.
Như vậy, từ một chi tiết trong chính sử, lại có di vật để lại một bài thơ, một di dản văn hoá, hoàn toàn phù hợp với truyền thuyết và địa danh của một vùng đất, khiến cho chúng ta nhận thức rõ ràng hơn về lịch sử dân tộc, ý thức thấy sợi dây liên tục từ thuở cha ông gian khổ lập nên chiến công giữ nước cho đến ngày nay.