Phim truyện lịch sử - Vì sao? (bài 2)

Nho giáo - một di sản văn hoá đang mai một

Nước Việt Nam cho đến Cách mạng tháng Tám, là một nước phong kiến, ảnh hưởng Nho giáo rất đậm. Không cần bàn vì sao lại như vậy, có lẽ mọi người chúng ta có chút ít hiểu biết về lịch sử dân tộc, đều có thể lý giải được. Nhà Nguyễn tiếp thu di sản truyền thống văn hoá từ nhà Lê, vốn là một triều đại Nho giáo cực thịnh. Nhà nước phong kiến dùng Nho giáo làm nền tảng giáo dục, cơ sở kiến thức để tuyển bổ quan lại. Đi học là học Nho giáo, thi đỗ làm quan coi như một cuộc đổi đời, từng bước tiến vào thang bậc quan lại, một tầng lớp cao trong xã hội.

Nho giáo cũng là một triết thuyết có ích cho việc xây dựng nhân sinh quan của trí thức xưa, thấy rõ nhất là Nho giáo dạy cho người ta phương thức ứng xử, tuỳ theo từng mức độ may mắn trong đời đi học mà tu, tề, trị, bình. Mẫu người quân tử cũng là một mô hình con người xã hội rất hấp dẫn, có ích cho việc xây dựng một xã hội quân chủ có kỷ cương, trong đó đề cao tiết tháo của người có học. Hệ thống lễ giáo Tam cương, ngũ thường, làm cho xã hội Nho giáo ổn định, đặc biệt là coi trọng nền tảng gia đình. Trong bốn mức độ của người quân tử, thì tu thân và tề gia là đức tính của một người trí thức có thể thi thố để tu dưỡng bản thân, xây dựng gia đình, đó là phẩm chất mà đại đa số trí thức có thể "hành", từ đó có thể thấy, xã hội phong kiến bền vững theo hình tháp trí thức. Chỉ những trí thức thật giỏi, mới leo lên đến tầng trên để thi thố "trị quốc" và còn rất ít mới có thể "bình thiên hạ"

Trong điều kiện để có được kiến thức lớn, người trí thức Nho giáo phải bắt đầu học chữ từ rất sớm và học rất lâu dài. Quá trình rèn giũa với đống kinh sách thử thách trí tuệ và đức tính kiên nhẫn, phát huy được các đức tính của một người có nề nếp, trí xét đoán của ông quan. Trong kho sách thánh hiền ấy, quả thật có nhiều kiến thức quý báu về nhân học, xã hội học, mà xã hội phong kiến Trung Quốc vốn có truyền thống văn hoá 2000 năm đúc kết nên. Những trí thức lớn thường là đỗ đạt, làm quan, và hầu hết là những nhà văn, nhà thơ, có thể trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, giữa thì thấu lòng người.

Tuy vậy, trong quá trình vận động của nền giáo dục phong kiến, nảy sinh một tầng lớp hủ Nho, có thể sơ bộ thấy họ là những người dường như sự học đã làm cho họ bị tự thôi miên. Biểu hiện của họ là mở miệng là nói sách, họ dùng văn sách để làm phương tiện tiến thân, coi sự học là cách để đổi đời. Họ xa rời đời sống, không đếm xỉa đến cái đích của việc học, quên mất mục tiêu của việc làm văn, quên rằng học kinh sách là cứu đời, giúp đời, mà nhất nhất coi "sách Thánh hiền" là chân lý tối thượng. Trong số họ, có một số mãi mãi không đỗ đạt thì bất đắc chí, ngày càng gàn dở, thực tế họ ngay từ đầu, đã không đạt được mức độ "tu thân".

Lịch sử Việt Nam có một giai đoạn cay đắng là bị Pháp đô hộ. Tuy vậy, kết quả của việc ảnh hưởng của văn hoá Pháp đến Việt Nam có những hệ quả khách quan, ngoài ý muốn của nhà nước phong kiến Việt Nam và ngoài ý muốn của kẻ đô hộ. Chỉ riêng việc du nhập chữ la –tinh cũng là một sự kiện rất quan trọng, khiến cho truyền thống Nho giáo bắt đầu nhạt, và dần dần Nho giáo ngày càng mất vị trí quan trọng trong đời sống xã hội. Chữ La –tinh là một phương tiện đến với văn minh phương Tây, trong đó có việc thúc đẩy dân chủ, phá vỡ bức tường ngu dân, giao lưu văn hoá với bên ngoài... Việc này, đồng hành với trào lưu thay thế hình thái xã hội phong kiến bằng các mô hình xã hội tiên tiến hơn trên toàn thế giới. Do đó, Nho giáo thường được coi như trụ cột của triết thuyết của xã hội phong kiến Việt Nam, cũng ngày càng mất đi vị thế của nó. Đặc biệt, từ sau Cách mạng Tháng Tám, Nho giáo bị đánh một đòn cuối cùng, nhất là vì một thời ấu trĩ mấy chục năm, do những sai lầm của một số chính sách từ cải cách ruộng đất, đến việc coi nhẹ chủ trương giáo dục, khuyến khích vô thần...

Việc từ bỏ Nho giáo, cũng đồng thời đánh mất đi những yếu tố tích cực của Nho giáo, vốn đã để lại dấu ấn sâu đậm trong truyền thống văn hoá Việt Nam. Vai trò của người thày trong nhà trường ngày càng mất đi, nền tảng gia đình không được khuyến khích, kỷ cương xã hội có phần bị buông lỏng... Một thời, đến Thủ tướng còn phải kêu gọi "thày ra thày, trì ra trò". Đó chính là phiên dịch chữ "chính danh" của Nho giáo. Vì không chính danh, nên Thủ tướng mới phải kêu gọi như thế. Có thể nói, mấy chục năm ra sức xây dựng "con người mới xã hội chủ nghĩa", cho đến nay, chúng ta chưa hình dung rõ ràng con người ấy như thế nào? Con người ấy phải có đức tính gì để có thể tu dưỡng bản thân, giúp ích cho người thân, cho xã hội?

Những trí thức không biết đến ông bà tổ tiên

Thời kỳ đổi mới đến, cùng với luồng gió mới về tư tưởng, một số vấn đề mới được xem xét lại. Trí thức xã hội lứa tuổi năm mươi, sáu mươi trở xuống, thực sự lớn lên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, được học phổ thông từ khoảng những năm sáu mươi trở đi, thì hầu hết không biết mấy đến di sản văn hoá truyền thống dân tộc, đó là Tam giáo, trong đó có Nho giáo. Văn hoá không đơn giản chỉ là trống đồng, mấy mảnh hiện vật khảo cổ... Chủ nghĩa Mác- Lê nin, chủ nghĩa cộng sản, đúng rồi, cần lắm. Văn minh phương Tây, từ Nga, Đức đến Anh, Pháp, Mỹ... Hay lắm! Nhưng chúng ta sinh ra trong gia đình có bố mẹ, ông bà, tổ tiên đã sinh sống như thế nào? Cứ nói mãi về truyền thống vẻ vang, cứ giáo dục truyền thống lịch sử, sao lại chỉ dạy ông bà tổ tiên ta đánh giặc như thế nào, nội chiến các vương triều lật đổ nhau ra sao? Không biết tổ tiên ta suy nghĩ gì, nói năng như thế nào? Ông bà tổ tiên ta sống trong bầu không khí tâm linh như thế nào, tin cái gì và ghét cái gì? Xin lỗi, thử hỏi các trí thức dưới sáu mươi đã học phổ thông từ những năm sáu mươi, có biết không? Dĩ nhiên là nhà trường không dạy, sách và tư liệu một thời rất khan hiếm. Kiến thức đến với chúng ta ban đầu rất lỗ mỗ. Sau này, chỉ có nỗ lực tự học, mới có thể hy vọng lấp được phần nào cái khoảng trống vô biên về lịch sử văn hoá dân tộc đó. Sinh ra trên đời là được bán khoán lên chùa, ngày rằm mồng một đi chùa, còn những ngày khác có thể ăn thịt chó, đó là vì sao? Ngôi chùa sừng sững ở đầu làng, sao lại phối thờ cả thánh? Thế mà có thời người ta đập bỏ hết? Thánh thờ ở chùa làng này là tướng đánh giặc ngoại xâm, nhưng sao thần hoàng làng khác lại chỉ là một ông ăn trộm? Sao lại thờ Mẫu ở phủ rồi hát lên đồng? Đó là mê tín hay sao mà nghe hay và cuốn hút đến thế? Đứng trước những phức tạp và mâu thuẫn ấy, một thứ ma lực ma mị nào đó khó có thể diễn tả thành lời, nhưng linh cảm của một người đa cảm mách bảo, đó là những thứ ông bà tổ tiên chúng ta đã tin, đã vì nó mà có niềm tin và sự vui sướng làm lụng, nuôi các thế hệ cho đến chúng ta?

Tại sao ông bà cụ kị chúng ta vừa đánh xong Trung Quốc, lại làm lễ giỗ trận rất to cho cả kẻ thất trận và người chiến thắng, rồi cử sứ sang để cầu phong, cống phẩm vật? Tại sao toàn bộ kho tàng Nho giáo là của Trung Quốc, dùng chữ Hán, mà vẫn giữ được là Việt Nam? Vậy cái phần Việt Nam có phải chỉ là cái áo, cái váy, cái quần hay là cái gì khác rất căn cốt nữa? Tổ tiên chúng ta, lấy cái gì làm phân biệt kẻ thân Tàu với người chống Tàu, trong một xã hội mà thờ Khổng Tử làm sư phụ, nhà chùa thờ Bồ Đề đạt ma làm người khai sáng và phủ thì thờ Quan Công, quán thì thờ Lão Tử? Linh cảm cho ta thấy, trong cơ sở kiến thức văn hoá của người xưa, có cái phần tự tin để tiếp nhận văn hoá, không hồ đồ đến mức tránh mọi thứ của Trung Hoa.

Xin thưa, trí thức như các vị tiến sĩ chuyên ngành nọ ngành kia, không chỉ là ngành khoa học kỹ thuật đâu, cả nhà văn, nhà thơ nữa, chắc hẳn khối vị không hề bận tâm đến điều mà một bạn đọc Vietnamnet gọi là "sự đứt gãy về văn hoá" này. Tôi dám chắc không nhiều lại dám kêu to lên là không biết gì về cái lỗ hổng to tướng về lịch sử văn hoá dân tộc.

Hậu quả là, xuất hiện một hội chứng phiến diện về cách nhìn lịch sử dân tộc. Hầu hết đều chỉ biết đến bài học chống ngoại xâm, mà ít biết đến bài học ứng xử với cộng đồng, ứng xử với thiên nhiên, ngoại giao với nước ngoài, hay bài học về sự thay đổi về cương vực lãnh thổ.

Đề phòng bệnh hủ nho trong chúng ta

Do những lỗ hổng về kiến thức văn hoá dân tộc, mà hình thành hai loại quan điểm sai: Một là bị ảnh hưởng của sách vở, mà đây là sách vở trường ốc, nên nhất nhất cái gì khác với sách vở là bị quy chụp. Hai là, hội chứng "theo chuyên gia", điều gì không biết thì hỏi chuyên gia, nhưng hỡi ơi, chuyên gia của ta không phải lĩnh vực nào cũng có đâu, và không ít vị "hủ nho", cũng lại nói theo sách nốt.

Có thể thấy, Nho giáo đã bị mai một, nhưng chúng lại chỉ hiển hiện trở lại ở hình ảnh của kẻ "hủ nho". Đó là đề cao chữ nghĩa một cách lố bịch, có người coi cái danh "nhà văn, nhà thơ" là có thể vênh vang với thiên hạ, vỗ ngực cái gì cũng biết; có người coi việc có tấm bằng tiến sĩ là có thể vinh quy võng lọng, làm quan trị quốc, bình thiên hạ được rồi.

Có người mang danh trí thức, coi những chữ tượng hình là chữ của ngoại bang, là chữ Hán tất tần tật. Không thể phân biệt được chữ Hán với chữ Nôm, vì khó quá, nhưng nếu chỉ cần biết các cụ có thứ chữ tượng hình, thì có lẽ không dám vơ đũa cả nắm như thế.

Có người, tiểu thuyết hoá lịch sử thời Lý- Trần, cho triều đình xử tội một người bằng cách lên giàn thiêu. Một giai đoạn lịch sử, với triều đại lấy đạo Phật làm chủ đạo, thì người được thiêu là được tuyên dương. Một ông quan trong xã hội Phật giáo không trị tội Phật tử bằng cách thiêu người. Cái gọi là giàn thiêu, thiêu kẻ tà đạo bị tội, chỉ có trong tư duy Thiên chúa giáo Phương Tây thời Trung cổ. Như thế, để hiểu cha ông, hiểu tinh thần thời đại, xuất phát điểm đã chệch rồi, làm sao phản ánh được cái gì nữa. Nhưng lại có khá nhiều học giả tung hô.

Lịch sử về thời xa xưa hàng nghìn năm, hàng trăm năm thì cãi nhau là tất nhiên rồi, nhưng lịch sử cận đại và giai đoạn kháng chiến chống Pháp có thể cũng còn cãi nhau chán chê. Hiểu một con người như lãnh tụ Hồ Chí Minh, có khi cũng không đơn giản. Đó là vì chúng ta không sống vào thời kỳ của các cụ, không biết cái văn hoá Tam giáo đã nuôi dưỡng nên các cụ, chỉ chăm chăm xem xét các cụ theo ánh sáng vô thần. Hồ Chí Minh ở phương Tây thì thắt ca-vat, sau này, thì mặc áo Tôn Trung Sơn, bạn bè thân với những Mao, Chu. Nói theo cách nhìn của một số học giả, có lẽ Hồ Chí Minh không phải Việt Nam chăng? Có người, xem phim "Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông" rồi cứ nói vu vơ "chết điếng" vì thấy bối cảnh Hồng Kông, Trung Quốc. Chỉ có những ông ấy chết, chứ Nguyễn Ái Quốc vẫn sống qua được cạm bẫy vụ án Hồng Kông. Tại sao quảng đại quần chúng vẫn chấp nhận phim, chiếu nhiều lần? Là vì cái hồn cốt nhân vật rất đậm trong tác phẩm, một người Việt Nam tiêu biểu, mà các đạo diễn có quan điểm riêng, không chăm chút về ngoại hình nhân vật cho thật giống. Đó có thể cũng là một quan điểm phải tranh cãi.

Gần đây, việc làm phim lịch sử bắt đầu ồn ào, mới thấy tất cả chúng ta đều thiếu hiểu biết về lịch sử dân tộc. Thiếu do chính điều kiện khách quan của lịch sử, các văn vật bị tàn phá, thiếu do chính chúng ta tự làm ngu nhau, đập phá di sản của cha ông, không giáo dục truyền thống văn hoá một cách căn cơ. Thiếu chính cái mà cha ông ta đã hành xử nhiều thế hệ, đó là cái tinh thần Việt bất khuất, ứng xử linh hoạt, "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Cái thiếu chí tử mà người đời nay không có, đó chính là hiểu cho được cái hồn cốt cha ông, chứ không chỉ là bối cảnh, trang phục. Dĩ nhiên nó có khác, nhưng nếu không tìm ra cái hồn người, cái tâm linh nhân vật, thì phim ảnh hay tiểu thuyết chỉ là minh hoạ, điều mà văn nghệ một thời bao cấp đã mắc phải, điều mà tất cả đều biết hậu quả của nó thế nào?

Làm gì?

Phim ảnh là một tác phẩm nghệ thuật, cũng như một tiểu thuyết, nó là thể tài nghệ thuật hư cấu. Tôi sẽ bàn về sự thật trong tiểu thuyết và phim lịch sử. Đây chỉ nói, cần phân biệt nhân vật trong phim và nhân vật lịch sử, phân biệt bối cảnh trong phim và bối cảnh lịch sử. Nhân vật của tác phẩm, miễn là thể loại nào, phải sống động, chuyển được thông điệp của tác giả phú cho nhân vật đó. Là một tác phẩm nghệ thuật, nên từ nhân vật đến bối cảnh, trang phục, phải thoả mãn yêu cầu mỹ học nhất định. Không câu nệ cứ phải ngày xưa thế nào, phải làm y sì như thế. Là tác phẩm nghệ thuật, thì không thoát khỏi đặc tính thương mại, phải có tính cạnh tranh. Khá nhiều người sợ chữ "thương mại", vì tư tưởng "khinh thương" bấy lâu nay. Phổ cập có phải đặc tính của thương mại không? Sản phẩm ấy phục vụ tốt cho người tiêu dùng có phải thương mại không? Làm sản phẩm gì cũng phải hướng đến thị trường, ở đây là quảng đại quần chúng, chứ không phải chỉ có các vị học giả. Làm phim thời nay, cứ chậm rề rà, rồi ngẫm nghĩ như phim Liên Xô ngày xưa, hoặc đơn sơ như phim đen trắng Việt Nam, thì xem chán lắm, chả ai thích. Hoành tráng mà đặc chất Tàu, người ta cũng sẽ đào thải. Chả có gì phải sợ quần chúng, khán giả không hiểu biết mà "nhiễm văn hoá Trung Quốc". Nói thế hoá ra đánh giá thấp khán giả lắm ư?

Một ví dụ là tác phẩm của Nguyễn Du. Truyện Kiều thực chất là câu chuyện về những người Trung Quốc, bối cảnh Trung Quốc, tại sao chúng ta lại thấy cô Kiều đúng là Việt Nam. Tại sao chúng ta tự hào về Truyện Kiều? Tại vì nó viết bằng thứ thơ lục bát chăng? Chưa chắc. Đó hẳn là cô Kiều ấy có tâm hồn Việt, được tác giả thổi vào nó cái tâm hồn Việt. Hãng phim Hội Nhà văn Việt Nam đang vận động làm bộ phim về Truyện Kiều. Có hai luồng ý kiến khác nhau, mà đều là ý kiến của các nhà văn, nhà thơ: Một là, cần phải tước bỏ toàn bộ bối cảnh Trung Quốc, giữ lại cái cốt truyện, tên nhân vật, còn thì vô danh hoá tất cả các địa danh, cho nhân vật mặc trang phục Việt Nam thời Nguyễn, bối cảnh Việt Nam thời Nguyễn. Hai là, cụ Nguyễn tả thế nào, cứ y xì như thế mà làm, thế mới là không xuyên tạc tác phẩm của cụ Nguyễn. Cứ Lâm Tri, Vô Tích và thời Minh mà làm. Kiều thực chất là người Triết Giang, một khu vực trong nước Việt cổ, trong Bách Việt. Văn hoá con người trong truyện Kiều chính là văn hoá Việt. Làm phim Kiều như thế, Trung Quốc chắc chắn phải "nể". Trung Quốc có một phim cốt truyện, bối cảnh, nhân vật Việt Nam (phim "Sông Hồng"), tại sao ta không làm một phim về Trung Quốc?

Vậy thì nên thế nào đây?

Làm theo cách thứ nhất, xem phim, liệu có "vào" không? Có phải là nhại Nguyễn Du không? Làm theo cách thứ hai, liệu có phải là Hán hoá không? Và học Nguyễn Du thế nào để thổi cái hồn Việt vào nhân vật? Nhỡ cô Kiều lại hoàn trở lại thành người Hán thì sao?

Cho nên, cái khó nhất đối với người viết (hay làm) tác phẩm về lịch sử, không phải là miêu tả trang phục, bối cảnh, mà là lột tả được cái hồn cốt của nhân vật. Muốn vậy, không thể dùng con mắt vô thần mà nhìn được. Phật giáo thời Đinh khác với thời Lý, khác với thời Trần, ông sư thời Lý nói khác với ông sư Thời Trần, càng khác với ông sư thời Lê. Một ví dụ, Lý Thánh tông xây Văn Miếu, thờ Khổng tử, nhưng chính ông lại là tổ thứ hai của Thiền phái Thảo Đường. Tổ Thảo Đường cũng lại là người Trung Quốc. Vậy thì Lý Thánh tông có hồn cốt Việt Nam ở đâu, hay chỉ là quần áo?

Tóm lại, quần áo, trang phục là vấn đề nhỏ, nếu chú ý kỹ sẽ tránh được kiểu làm của Trường Thành. Nhưng vấn đề lớn nhất chính là vấn đề muôn thuở của các tác giả, đó là nhân vật, cốt truyện. Đó chính là điều quyết định nhất để làm nên cái hồn Việt trong phim Việt. Cho nên, ở phần đầu bài viết trước, khi nói về phim của Trường Thành, tôi cho rằng, điều quan trọng hơn chính là nội dung phim, chứ chưa chắc là những ồn ào về "màu sắc Trung Quốc" khi nhìn thấy trang phục, bối cảnh.

(Bài 3: Sự thật và hư cấu trong phim lịch sử)