Nói chuyện Trung Quốc với ông Trần Đình Hiến và Hà Phạm Phú (bài 6)

Nhà văn Hà Phạm Phú gần đây ra mắt cuốn tiểu thuyết lịch sử "Trưng Trắc", mô tả cuộc khởi nghĩa Bai Bà Trưng năm 40. Đọc tiểu thuyết của ông Phú về giai đoạn đầu thế kỷ thấy cũng thích, nhưng thủ vị nhất là ông Phú lý giải mối quan hệ Giao Chỉ với nhà Hán. Theo ông Hà Phạm Phú, trước khi Mã Viện đàn áp Hai Bà Trưng, cơ cấu xã hội, phong tục tập quán của nước Nam Việt hầu như còn nguyên vẹn. Dù cho triều đình Nam Việt do Triệu Đà dựng nên đã sụp đổ, nhưng do thủ đô ở xa, sự đô hộ của nhà Hán lỏng lẻo, miền đất Nam Trung Quốc và Bắc Việt Nam ngày nay vốn nằm trong địa phận nước Nam Việt vẫn chưa bị Hán hóa đáng kể gì. Phong tục tập quán của Âu Lạc lấy sự nguyên sơ làm căn bản, phong hóa bản địa rõ rệt, ảnh hưởng Nho giáo còn chưa có, mãi sau này Nhâm Diên và Sĩ Nhiếp mới truyền bá Nho học, vậy thì lúc Hai Bà Trưng sống, chế độ mẫu hệ mới có đất sống chứ.

Tại sao cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng lãnh tụ phần lớn là đàn bà? Bởi vì thái thú và bộ máy chính quyền Hán đô hộ là đàn ông, còn lại tín ngưỡng, phong tục vẫn là mẫu hệ. Hai Bà Trưng phất cờ, thì các bộ tộc có các thủ lĩnh đàn bà theo ngay. Và, điều căn bản, theo ông Hà Phạm Phú, cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng không phải chỉ xảy ra ở phần đất sau này là Bắc Việt Nam, mà xảy ra ở phần đất nước Nam Việt cũ, tức bao gồm mấy tỉnh Nam Trung Quốc, như Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam ngày nay.

Ông Hà Phạm Phú có thời gian công tác tại 3 tỉnh Nam Trung Quốc trên đây, với vốn tiếng Hán dày dặn, ông đã tích trữ tư liệu và kinh nghiệm sống để thai nghén tiểu thuyết "Trưng Trắc". Hầu hết các tỉnh Nam Trung Quốc đều có đền thờ Vua Bà. Sau này, do nguyên nhân nào đó mà Trung Quốc diễn đạt khác đi, nhưng đó chính là thờ Hai Bà Trưng.

Tôi cho rằng, truyền thống thờ Vua Bà còn ảnh hưởng đến quá trình tiếp thu đạo Phật. Thiền tông truyền từ Ấn Độ qua Nam Trung Quốc, rồi lần thứ hai vào Việt Nam, sau làn sóng khởi thủy từ đầu công nguyên. Trong Thiền tông và Phật giáo nói chung theo hệ phái này, Phật Bà Quan Âm đặc biệt được đề cao. Tín ngưỡng truyền thống có thể đã sống lại, len lỏi qua luật lệ chính quyền Hán hóa, sống lại với tôn giáo.

Ông Phú lý giải có thực tiễn và có dẫn chứng, Hai Bà Trưng giải phóng 65 thành, đó là thành lũy của nước Nam Việt cũ, chứ chỉ có Giao Chỉ thì làm sao có 65 thành?

Như vậy, có một sự thật mà các giáo trình lịch sử nước ta không nói ra, mà chỉ có các nhà sử học biết thì biết với nhau: Có mệnh đề quan trọng là: Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng xảy ra tại phần đất nước Nam Việt cũ, tức là Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc ngày nay. Từ mệnh đề này, có thể soi sáng cuộc tranh luận về cột đồng Mã Viện. Mã Viện diệt Hai Bà Trưng xong, trồng một cái trụ đồng ở phân giới Việt -Hán. Thư tịch Trung Quốc cổ đã chỉ ra vị trí trụ đồng ở trong nội địa Nam Trung Quốc. Dĩ nhiên cũng có tam sao thất bản, nhưng sau thời Minh -Thanh, thuyết mang cột trụ đồng về phía Nam nước ta thực ra vô tình tiếp tay cho tư tưởng Đại Hán mà thôi.

Tôi hỏi các ông Hà Phạm Phú và Trần Đình Hiến, tại sao mệnh đề này người Việt Nam ta không nhắc đến một cách đàng hoàng và rõ ràng? Tại sao không giáo dục cho con em chúng ta lòng tự hào dân tộc như vậy. Ta nói thế, nhưng không bao giờ đi đòi đất Trung Quốc cơ mà. Lịch sử vốn nó như vậy... Hai ông nhà văn đều nói: Chúng ta là nhà văn, việc này có lẽ để nhà sử học và nhà giáo dục giải quyết chăng?

Dĩ nhiên là tôi biết, chuyện này liên quan sâu sắc đến việc các cụ nhà ta thời phong kiến nhìn nhận Triệu Đà là vua nước Nam Việt, và quốc thống nối nước Âu Lạc là Nam Việt. Như vậy dẫn đến một tranh luận về Triệu Đà và nước Nam Việt, về quá trình Hán hóa các dân tộc phương Nam (không chỉ ở Việt Nam). Bây giờ ai, phía nào sợ điều đó, suy ra được ngay. Người Việt chắc là không sợ rồi. Dẫn đến một hệ quả quan trọng: Người làm chính trị ở một tầm nào đó nhất định phải am hiểu lịch sử dân tộc.

Điều tôi ủng hộ ông Hà Phạm Phú là lao động nghiêm túc khi viết một tiểu thuyết lịch sử. Tôi chỉ dám viết về thời vua Đinh, về thời Trịnh –Nguyễn. Khi đó lịch sử tương đối rõ trong tư liệu thành văn. Còn thời Hai Bà Trưng, phải mô tả xã hội Hai Bà Trưng sống thế nào đây, nếu hiểu rằng Hai Bà chỉ làm khởi nghĩa ở phần đất ngày nay là Việt Nam thôi. Và, nếu không hiểu căn nguyên bối cảnh xã hội ấy, sẽ nông cạn cho rằng ông Phú miêu tả sex thái quá, phồn thực thái quá. Bởi vì một xã hội chưa có Nho giáo đè nặng vào như một cái cùm tôn ty trật tự, thì xã hội ấy tươi vui và hạnh phúc lắm. Dấu vết ở ca dao, phong tục qua hai ngàn năm còn nhiều ở các lễ hội đình làng minh chứng cho nhận định đó. Từ đây, tôi ngẫm ra, vì sao người Việt Nam dạy sử cho thanh niên thất bại, là bởi vì có nhiều khoảng tối không dám nói rõ ràng. Khi anh giấu một tý, một tý, thì thành ra sự thật lịch sử sẽ khó nói ra.

Kỳ sau: Tây Du ký có phải là của Ngô Thừa Ân hay là sản phẩm của Đại Việt?