
Người Việt năng động và người Việt lười nhác
Nói "người Việt" tức là tôi muốn nói đến người "Việt Nam" ta. Quảng Châu, vốn là thủ phủ Phiên Ngung cách đây hơn hai ngàn năm của nước Nam Việt với vương triều nhà Triệu, mà Giao Chỉ là một quận. Cho đến nay, người Hoa vẫn gọi vùng đất này là vùng Việt, kinh kịch xuất xứ phương Nam Trung Quốc gọi là Việt kịch, các xe ô tô chạy ở Quảng Đông có chữ Việt bộ "ngoã" làm đầu biển số xe (khác hẳn chữ Việt bộ "qua" chỉ Việt Nam)...
Thoạt đầu, mới đến Quảng Châu, có vẻ như không có nhiều người Việt Nam như ở Nam Ninh. Nam Ninh thủ phủ Quảng Tây có biên giới với Việt Nam, lại được Chính phủ Trung Quốc cho chế độ ưu đãi thương mại, là cửa ngõ hợp tác Trung Quốc với các nước ASEAN trong chương trình 10+1, dĩ nhiên Nam Ninh nhiều người nói tiếng Việt, nhiều người Việt đến làm ăn, du lịch. Nếu chỉ đi một tua du lịch thôi, "tua gai" sẽ dẫn bạn đến những cửa hàng Nam Ninh có 100% nhân viên nói tiếng Việt, dường như bạn cảm thấy đang đến một cửa hàng ở Hà Nội vậy. Hoặc có khách sạn ở Nam Ninh đầy chặt người Việt, ăn món Việt...
Với Quảng Châu, có lẽ vì quy mô thành phố khá lớn, mà người Việt đến làm ăn ở Quảng Châu bị mất hút trong biển người, biển phố phường mênh mông hai bên bờ sông Châu.
Do công việc mà tôi phải tìm kiếm một người phiên dịch, nên tình cờ có dịp thâm nhập và hiểu đôi điều về những người Việt Nam, hay đúng hơn là biết một vài người trong số những người Việt Nam ở Quảng Châu. Mỗi người một hoàn cảnh, họ đã đến Quảng Châu để sinh sống, để hy vọng và thất vọng.
Hai cô phiên dịch đầu tiên hoá ra chính là những người Việt Nam, vẫn mang quốc tịch Việt Nam, nhưng đã sinh sống ít nhiều ở Quảng Châu. Một cô tên là Thu đã đến Quảng Châu 10 năm nay, lăn lóc trong các khu lao động, làm đủ mọi nghề chân tay để kiếm sống, cuối cùng trụ ở nghề làm phiên dịch, chạy hàng cho những người Việt Nam đến đánh hàng ở Quảng Châu. Cô phiên dịch thứ hai, Hạnh, là một ngưòi Hà Nội, đến Quảng Châu làm tại một công ty Trung Quốc có đại lý tại Việt Nam. Chính bố cô đứng chủ đại lý ấy. Nhưng công việc ưa thích của cô không phải là làm thuê cho người Trung Quốc trong những công xưởng bụi bặm, cô đã đi ra xung vào đội quân phiên dịch cho những người buôn bán Việt Nam đến Quảng Châu.
Điều đáng ngạc nhiên là sau một số ngày làm việc, tôi mới vỡ lẽ là các cô phiên dịch của mình đều không biết chữ Trung. Tuy rằng các cô đã giúp tôi rất nhiều, tôi nhờ các cô mà thâm nhập vào một chút ngóc ngách của người Việt Nam ở đây, mà sau đây tôi sẽ kể. Tuy vậy, tôi cũng buộc phải đi tìm người phiên dịch khác. Lý tự nhiên là tìm đến các trường đại học ở Quảng Châu, trường nổi tiếng nhất có khoảng hơn vài trăm sinh viên Việt Nam đang học là Đại học Trung Sơn.
Một sinh viên đầu tiên tôi được giới thiệu, đòi cái giá phiên dịch "ngất ngưởng" là 400 tệ một ngày (tỷ giá lúc đó là 1/25). "Chúng em toàn làm thế. Mùa Hội chợ còn không có sức để làm". Tôi còn chưa định nói gì thì cô này đã quay ngoắt đi, để lại câu nói: "Em học ở đây bỏ học một ngày là bỏ hơn trăm tệ. Đi làm cho anh 400 anh còn tính thì thôi..."
Theo giới thiệu của Hạnh, tôi gặp một cô sinh viên thứ hai, cô này biết tôi quen Hạnh nên thật thà nói: "Chúng em đang mùa thi, chỉ đi tranh thủ một hai ngày được thôi. Nếu là người sang làm ăn ký kết hợp đồng, tóm lại là đại gia thì đi kiếm vài trăm tệ thêm vào tiền học".
Tôi chán nản lắc đầu. Chưa tính giá cả, mà là công việc đòi hỏi người làm liên tục trong một hai tuần, phiên dịch mới lại phải nắm lại công việc vài ngày thì dở dang lắm. Thấy tôi có vẻ không vui, cô này nói, giọng tưng tửng: "Ở đây chúng em không phân biệt người nói tiếng gì, vì thực ra đều là người Việt cả. Người ở đây chỉ có hai loại, một là người Việt làm lụng, như chị Hạnh và những người sang buôn bán, còn loại thứ hai là người Việt lười nhác. Đa số dân Quảng Châu là người Việt lười, chúng em cũng lười lắm..." Tôi ngạc nhiên: "Vì sao vậy?"
"Thì đấy, anh ra đường mà xem. Sáng họ ngủ đến chín giờ chưa mở hàng, tối đêm còn mua sắm, chơi bời. Đi một bước là có xe cộ công cộng. Chả phải chạy đôn chạy đáo vì xe máy như ở ta. Hi hi... Hay là em giới thiệu cho anh một chị khác nhé..."
Hoá ra, trong mắt các cô, tiến đến ngưỡng "người Việt lười" là một đích mơ ước. Đa số dân Việt Nam và một bộ phận người Quảng Đông, được các cô liệt vào loại "người Việt làm lụng"
Ăn ở ở Quảng Châu
Đỗ Thị Minh đến Quảng Châu bằng con đường khá đặc biệt. Gần nhà cô ở Cẩm Khê, Vĩnh Phúc có một người Hoa trước kia sinh sống, nay họ đã về Quảng Châu, một lần ông người Hoa về Việt Nam chơi, thấy gia cảnh bố mẹ Minh khó khăn, nhà có chín anh chị em, làm ruộng rất vất vả, cô lúc đó mới khoảng ngoài hai mươi, khoẻ mạnh nhưng không có nhan sắc, người Hoa này nói nếu cô muốn thì có thể đi lao động ở một xưởng đá ở Quảng Châu. Thế là cô đi đến một xưởng đá ở cách Quảng Châu hai trăm kilômét để thành một thợ đá. Cách đây khoảng mươi năm, Trung Quốc đang "khai phát", các khu công nghiệp mọc như nấm, thiếu nhân công trầm trọng. Lực lượng công nhân chủ yếu là do từ nông thôn ra. Minh cũng hoà vào dòng người Trung Quốc "ly nông, bất ly hương" nhưng cô khác họ, cô còn "ly hương" nữa. Không ai biết cô là người Việt Nam, vì lao động đến từ Tứ Xuyên, từ Vân Nam hay các tỉnh khác nhau đều nói tiếng địa phương, không ít người nói tiếng phổ thông Bắc Kinh còn ngọng. Minh làm thợ mài đá, cắt đá. "Công việc nặng nhọc mà thu nhập chẳng đáng là bao"- Cô nói. Tôi hỏi thu nhập bao nhiêu, cô không nói mà lặp lại với giọng chán nản: "Chẳng đáng là bao, chỉ đủ một mình em".
Minh yêu một người con trai Quảng Châu hơn cô bảy tuổi hay đến khu vực xưởng đá lấy hàng. Yêu nhau cũng nghiêm túc, vì anh này dẫn cô về Quảng Châu chơi, giới thiệu với bố mẹ, nhưng với chỉ một yêu cầu là không đuợc nói cô là người Việt Nam. Vì cô nói tiếng Quảng rất tốt, nên nhà anh kia tin rằng cô ở một huyện nào đó của Quảng Đông. Nhưng rồi, anh người yêu vẫn mãi cứ chưa định nói thật với bố mẹ, đến mức cô không chờ đợi được nữa, cô cho rằng anh ta không thật lòng. Cô quyết định đến Quảng Châu làm phiên dịch cho những người Việt Nam buôn bán, tự lập để đứng chân ở một thành phố lớn.
Trước kia, người Việt lấy hàng ở Quảng Châu phần lớn là dân tự do, người phiên dịch cũng tự lo liệu. Khi Minh lò mò đến Quảng Châu, thì sự phân công lao động đã hình thành một kiểu "chủ", đại loại như kiểu "nhà cái". Một vài người Việt ở Bằng Tường đến Quảng Châu mua nhà, hoặc thuê được nhà rộng, có kho để hàng làm trạm trung chuyển. Tại đó, người Việt đến mua hàng có thể trọ tại đó, mua hàng về đóng và gửi tại kho. Cần phiên dịch và hướng dẫn tìm hàng thì chính nhà chủ đã có sẵn một số người để giới thiệu cho chủ hàng. Người phiên dịch có thể ở trọ ngay tại nhà "chủ" đó.
Khi Minh mới đến Quảng Châu, mọi người đều bảo cô bắt đầu công viêc ở những nhà chủ ấy, nhưng cô vốn có sẵn mối quan hệ với nhiều người ở Quảng Châu, nên cô đã tự thuê nhà ở riêng. Với tiền thuê nhà 800 tệ/tháng, có thể có một căn phòng hai mươi mét vuông, có toa let riêng, đi lại chung lối với nhà chủ. Việc thuê nhà cũng còn tuỳ khu vực, tuỳ loại nhà. Minh thuê nhà ở khu vực Quảng Châu cũ, ở chung với chủ, không được dẫn người khác về ở qua đêm. Cô Hạnh thì thuê nhà hơn 1.000 tệ, có thể ở 2 người, có thể tự do dẫn bạn trai về.
Ăn ở Quảng Châu cũng có nhiều mức độ. Những quán cơm bình dân với 6-8 tệ là có thể ăn qua bữa. Một đĩa cơm với vài cái rau, mấy miếng đỗ, miếng thịt mỏng và một ca canh loãng. Nhưng nếu muốn ăn tử tế và tươm tất thì không dưới 20 tệ. Vào các nhà hàng gọi món thì nên đi nhiều người, ba hay bốn người trở nên, vì nhà hàng chỉ tính giá tiền theo đĩa thức ăn.
So với năm 2000, thực phẩm ở Quảng Châu đã đắt gấp 3 lần. Nhưng với mức lương công chức ở đây, mức lạm phát đó vẫn chịu được. Một giáo viên về hưu lương khoảng 4.000 tệ, đại tá về hưu khoảng chín đến mười năm ngàn tệ. Như vậy thì ăn một bữa thịnh soạn ỏ nhà hàng khoảng 30 tệ, chi cả tháng 900 tệ cho ăn uống không phải là vấn đề gì đáng lo lắng. Còn nấu lấy ở nhà thì dĩ nhiên không đến mức đắt đỏ đến thế.
Nhà ở Quảng Châu khá đắt, có lẽ mặt bằng giá tương đương với Hà Nội. Người phiên dịch thứ ba cho chúng tôi là một bà giáo viên về hưu, có một căn hộ 90 mét vuông ở khu chung cư kiểu mới, nói có thể bán 1 triệu tệ (khoảng 2 tỷ rưỡi đồng), nhưng cách đây vài năm đã được hỗ trợ với tiêu chuẩn hai vợ chồng giáo viên, được mua chỉ với giá 12 vạn tệ. Như vậy, công chức được hỗ trợ mua nhà khá rẻ so với thị trường.
Với tôi, một người Việt không biết tiếng Hoa, thì ăn và ở (khách sạn) ở Quảng Châu là một ác mộng, thì đi lại ở đây lại là một trải nghiệm vô cùng thích thú. Có thể có nhiều cung bậc khác nhau trong chuyện này. Có thể lang thang ở các quán bình dân, còn cũng có thể như ông sếp tôi, thạo tiếng Trung, là một nhà văn lão luyện, ông đã la cà cùng bạn bè Trung Quốc vào các nhà hàng sang trọng, đủ mọi loại dịch vụ ở dọc bờ sông Châu, trong đó có những quán ăn đêm nổi tiếng đậm chất Quảng truyền thống. Ông có bài phóng sự "Những kiếp bướm đêm" nói về tầng lớp "trai bao" của Quảng Châu cũng rất kỳ thú. Đó phải chăng là tận cùng của một tầng lớp "người Việt lười" mà không ít người mơ ước. Với GDP lớn nhất Trung Quốc, thành phố phương Nam này vẫn là nơi nhắm đến của các tỉnh đại lục, để tận hưởng sự xa hoa, tất nhiên sẽ đẻ ra các loại dịch vụ rất quái chiêu, trong đó cũng có người Việt Nam tham gia.
Đi lại ở Quảng Châu
Giao thông và cửa hiệu Quảng Châu rõ ràng là bố trí cho một người không hề biết tiếng Hoa đi lại. Tôi võ vẽ một số chữ Hán, nên càng có thể tự đi lại, chỉ cần có hướng dẫn ban đầu một cách sơ lược.

Nội thành thành phố dài gần 100 km, chiều ngang hai bên bờ sông Châu vài chục kilomet nữa, với hơn 10 triệu dân, nếu không giải quyết được vấn đề đi lại, cứ như Hà Nội, thì có lẽ thành phố sẽ chen chúc xe máy. Nhưng không, thành phố của họ tịnh không có bóng chiếc xe máy nào. Hầu như các chỗ giao cắt là lập thể, đường tầng tầng lớp lớp, mở cửa căn hộ tầng 10, có thể thấy ô tô lao ngang qua trước mắt. Những tầng đường và đường dẫn phủ đầy màu xanh cây lá là hình ảnh đặc biệt của đô thị Quảng Châu.

Người Quảng thật có tính thực dụng, taxi của họ toàn xe cũ, phần lớn là xấu xí. Bao giờ cũng có lớp ngăn cách lái xe với ghế sau, là chấn song sắt hàn rất vững. Có thể thấy cách người ta làm kinh doanh ngay cả trên cái xe taxi 4 chỗ bé tí, dù xe cũ xấu, nhưng lại có màn hình tinh thể lỏng chiếu quảng cáo liên tục, hở ra chỗ nào trên xe là có dán quảng cáo rồi.

Một phương tiện khá phổ biến là xe buýt. Cách làm xe buyt của họ cũng khiến tôi ngậm ngùi nhớ đến xe buýt Hà Nội. Nếu tôi từ tỉnh khác về Hà Nội, muốn đi xe buýt, tôi chắc phải học qua một lớp ngắn hạn về tuyến đường, nếu không phải hỏi tỷ mỉ ai đã đi rồi, hoặc hỏi phụ lái. Vì ở Hà Nội, mỗi bến xe buýt, nếu có, thì dán một cái bản đồ mạng lưới xe buýt Hà Nội. Bến nào cũng dán cùng một cái bản đồ như nhau. Xem bản đồ phải có chút trình độ tối thiểu nào đó. Hoá ra xe buýt Hà Nội hầu hết là lớp bình dân, thì lại trưng ra cách chỉ dẫn rất bác học. Ở Quảng Châu, mỗi bến xe có một bảng kê mỗi tuyến qua thứ tự các bến nào, trong đó nơi đang đứng là chữ màu đỏ (tức là mỗi bản chỉ dẫn chỉ dành cho duy nhất một cái bến ấy). Thế thì bạn sẽ biết bạn phải xuống bến nào sau mấy bến nữa, và phải đi tuyến số mấy. Chỉ cần biết chữ là được, không cần biết xem bản đồ rồi đoán, vì bản đồ làm sao có thể hiện rõ tuyến ấy qua bao nhiêu bến?. Một cách làm ấy chắc hẳn người ta đã khảo sát tình hình thực tế và xác định xe buýt là dành cho đối tượng nào rồi. Một cái khác nữa, xe buýt Quảng Châu không có phụ lái. Chỉ có một anh lái chính, bên cạnh, ngay lối lên, có một cái hộp. Ai lên xe thì nhét vào đó 2 đồng, không có chuyện trả lại tiền, một thói quen của người đi xe là phải chuẩn bị sẵn 2 đồng tệ rồi. Còn nếu dùng vé tháng? Vé tháng là một thẻ từ, hãy áp vào bên cái hộp ấy, có một cái mắt quét, thẻ áp vào, kêu "tit" là Ok. Tôi đã quan sát cách người ta đi xe buýt, không kể hai người cũng xếp hàng lên, thì hoá ra cung cách đi xe của họ biểu hiện một trình độ văn minh công cộng khác hẳn ở Việt Nam. Anh lái chính có cái thước, nếu có ai vội vàng để tiền không kín, lộ ra, anh ta sẽ dùng thước ấn vào miệng hộp. Trên xe bao giờ cũng có 3 đôi loa, lúc chuyển bánh nói một lần, lúc sắp đỗ nói một lần nữa. Tức là lái xe buýt có nhiều chức năng hơn anh lái xe ở Hà Nội, vừa quản lý tiền vé, vừa bật loa, có phải vì thế mà anh ta đi từ tốn hơn anh lái xe buýt ở Hà Nội không?
Khu vực trung tâm thì có xe điện bánh hơi, loại này tôi chưa đi, nên không biết nó thế nào. Nói chung Quảng Châu cũng còn nhiều điểm có giao cắt đồng mức, khi cao điểm đều có nhiều người đeo băng đỏ, cầm cờ đỏ giữ trật tự, hướng dẫn người đi bộ. Một anh bạn Trung Quốc nói, họ là những người dân phòng ở phường, lao động công ích, và những người bảo vệ ở các công sở gần đó. Bảo vệ công sở phải chia nhau ra, lên lịch luân phiên trực một nút giao thông gần chỗ anh ta nhất. Đó là lợi ích cho chính cơ quan ấy. Đôi khi, có những cụ về hưu chiều chiều xin làm công ích cho vui, cũng đến làm chỉ dẫn giao thông.

Nhưng điều thú vị nhất ở Quảng Châu là những bến tàu điện ngầm, là đi tàu điện ngầm. Hoá ra người đi bộ là chui hết xuống đất. Ba phút một chuyến tàu, như cái chổi quét vĩ đại quét đi bao nhiêu là người. Hệ thống tàu điện có 4 đường, xếp thành hình chữ thập ngoặc, có thể đưa người ta đi đến khắp nơi trên thành phố rộng mấy ngàn cây số vuông trong có vài chục phút. Cách đi tàu ở đây là phương pháp tiên tiến nhất thế giới, từ lúc mua vé đến lúc ra khỏi ga, hoàn toàn tự động, du khách có thể thấy mình vừa đi qua một bộ máy tự động khổng lồ không có người điều khiển. Mỗi ga tàu điện ngầm là một kỳ quan, một trung tâm mua sắm, văn hoá rất lớn. Thành ra, người Quảng Châu không có xe máy, mà họ hoàn toàn không phải đi bộ đi đâu quá vài trăm mét. Một cách giải quyết đi lại cho dân thật hoàn hảo. Tôi ở Quảng Châu mấy tuần, không nhìn thấy ông công an nào, không gặp chính quyền bao giờ, nhưng lại thấy chính quyền hiện diện ở khắp nơi, thấy lực lượng giữ gìn an ninh hiện diện khắp chốn. Bàn tay vô hình của chính quyền không chỉ biểu hiện trong thị trường thương mại, mà ở cả đời sống của cư dân đô thị như vậy. Hệ thống tàu điện ngầm mới khai trương dăm năm nay, nhưng để có nó, chính quyền thành phố đã có kế hoạch và bắt tay vào làm từ cách đây hơn 10 năm. Họ tính cho thành phố của họ nửa thế kỷ nữa.
Người Việt làm lụng...
Nếu đi một chuyến xe Bằng Tường-Quảng Châu hoặc đến các thành phố lân cận như Ma Cao, Thâm Quyến, Chu Hải, Tô Châu... hẳn sẽ thấy nhiều người Việt Nam. Có chuyến xe hầu hết là người Việt. Mà điều bất ngờ nhất là hầu hết những người bươn chải ấy lại là phụ nữ.
Một phụ nữ nói với tôi: "Hồi xưa, người Hoa đi làm ăn xa xuống phương Nam, bao giờ cũng là người đàn ông kéo cả đầu tàu gia đình, còn bây giờ người Việt Nam mình đi kiếm sống lại chỉ có đàn bà. Những ông chồng thì ở quê cả anh ạ" Thật là một phát hiện dân dã mà đáng suy nghĩ.
Trường hợp cô Đỗ Thị Minh cách đây mươi năm sang làm lao động tại ngoại thành Quảng Châu không hiếm, còn ngày nay người Việt đi tìm việc ở các tỉnh Nam Trung Quốc lại càng nhiều. Trên một chuyến xe đi Chu Hải, anh bạn tôi biết đến một nhóm các cô gái Thái Bình, đi Chu Hải đến lần thứ ba, chỉ để kiếm việc. Các cô biết tiếng Hoa do đi lại lấy hàng ở Quảng Châu, giờ không muốn lấy hàng cò con nữa, mà muốn kiếm một việc gì đó "cơ bản" hơn. Đó có thể là bán hàng, làm lao động chân tay cho các công ty lớn, hoặc đơn giản là giúp việc gia đình. Các cô đã có thâm niên "lăn lộn" rồi, biết tiếng rồi, không dễ bị bắt nạt, có thể chọn việc tử tế. Trong số này, không ít người đã phải trả giá kinh nghiệm qua những năm tháng đi giúp việc gia đình ở Đài Loan. Vì ở Đài Loan điều kiện xã hội khác, lúc đó ngơ ngác trẻ người non dạ thì khác. Còn ở Trung Quốc thì lại khác...
Cũng có trường hợp đến Trung Quốc không phải vì buôn bán, mà vì du lịch, chữa bệnh, ký kết hợp đồng. Đỗ Thị Minh đã kiếm sống nhờ việc đưa người đi Thâm Quyến chữa bệnh. Có những bệnh mà người ta đi Thâm Quyến còn rẻ hơn đi Singgapo, đấy là tôi nghe chính người đi kể thế.
Dĩ nhiên có khá nhiều trường hợp thương tâm. Có những người bị lừa, bị bán. Trong cuộc mưu sinh khốc liệt, có đủ mọi số phận. Chính Đỗ Thị Minh đã kể với tôi, cô trực tiếp giải thoát cho 2 cô gái bị lừa bán sang một huyện cách Quảng Châu hơn 100 km. Một cô bị lừa sang làm vợ một ông già, một cô tự nguyện đi kiếm việc, sa vào một ổ chứa.
Nhưng không phải người Trung Quốc là xấu. Đó chẳng qua những tệ nạn thì lên phương tiện thông tin đại chúng mà thôi. Đại đa số người Việt Nam đến làm ăn đều được giúp đỡ. Tôi biết một người Việt gốc Hoa vốn ở Hà Nội, giờ ở Quảng Châu, anh ta giao du với nhiều người Việt làm ăn ở đây, các cô gái đều được anh giúp đỡ, giới thiệu khách buôn, hướng dẫn ăn ở rất tận tình.
Tất nhiên, do việc khá nhiều người Việt Nam sang Quảng Châu buôn bán, làm lụng vất vả, mà hình ảnh về người Việt Nam không mấy tốt đẹp. Một anh bạn tôi khi vào quán cà phê đêm ven sông Châu, biết anh là người Việt, mấy cô phục vụ nháy nhau chuồn cả. Các cô thích chăm sóc khách Đài, khách Nhật chứ. Đâu ngờ anh bạn tôi là dân buôn bán bất động sản. Anh ta khoạng chân, đập một nắm nhân dân tệ lên bàn, khiến cho chủ nhà hàng phải đến xin lỗi và điều tiếp viên rối rít. Đại khái tình cảnh của người Việt Nam ở đất láng giềng với ta không mấy vui vẻ. Có nên nói thẳng điều này không? Có chứ, vì ở nhà nhất mẹ nhì con, báo chí ta tự khen ta nhiều quá. Không thấy chúng ta yếu kém thế nào? Một người Quảng Châu vốn là người Việt gốc Hoa ở Hà Nội, về Quảng Châu năm 1978, nói với tôi: "Hồi xưa, người Hà Nội nhìn người Hoa là "chú khách", là "chú Tàu nghe kèn", nhưng bây giờ thì tôi về Hà Nội thăm bạn bè, thấy được tôn trọng, tôi tự hào về Tổ quốc tôi" Đó là anh ấy khiêm tốn mà nhún mình đấy. Nói khéo đấy. Chả lẽ anh ấy lại bảo "lẽ nào người Việt ở Quảng Châu bây giờ lại tráo đổi địa vị của người Hoa tha hương ngày nào?" Có những điều khó nghe vẫn phải nghe, có những món thuốc khó nuốt, vẫn phải uống chứ.
Chuyện Quảng Châu còn dài dài, hy vọng những lần sau không phải kể chuyện làm lụng buồn nữa, mà tôi sẽ kể những chuyện vui.