Hy vọng "lồng tồng"...
Lễ hội Lồng Tồng được các bản tổ chức không cố định vào ngày nào, từ ngày 3 tết đến hết tháng Giêng. Hàng năm, lễ hội lớn nhất được xã Nam Mẫu (huyện Ba Bể) tổ chức. Nam Mẫu là xã nằm trong vùng rừng do Vườn Quốc gia trực tiếp quản lý, với khoảng 700 hộ sinh sống trong 10 bản, nằm sâu bên dãy núi từ xưa vẫn được coi là trung tâm kinh tế, văn hoá của vùng hồ.

Trước ngày chính hội Nam Mẫu, thời tiết trở nên rất đáng hy vọng. Vẫn rét, nhưng nhiệt độ đã vượt qua 12-14 độ. Trời có âm u mà không mưa. Những hoạt động chuẩn bị cho lễ hội đã diễn ra rất khẩn trương ở bãi đất rộng thuộc bản Bó Lù. Hoạt động chuẩn bị sôi nổi nhất lại là những quán hàng. Ô tô tải chở hàng đồng thời những lều vải đủ màu xanh đỏ tím vàng. Đáng buồn là hầu hết hàng xuất xứ từ Trung Quốc. Hàng địa phương chiếm một tỷ lệ khá nhỏ, ngoài mấy quả bầu khô, tép chua, mấy hàng mía tím...
Linh hồn của Hội Lồng tồng xưa là Nghi lễ tạ ơn Trời đất, cầu một năm mùa màng tươi tốt. Nếu cứ theo tín ngưỡng ấy thì năm nay Nam Mẫu đứng trước thử thách nghiệt ngã. Bởi vì ngày chính hội, mưa bắt đầu dày từ đêm, kéo dài đến gần trưa mới ngớt được một chút. Các hoạt động chính phải diễn ra chủ yếu buổi chiều, song cũng bị ảnh hưởng vì rất nhiều người không đến dự hội. Các trò diễn, tiết mục buộc phải cắt gọn. Tuy nhiên, chính vì vậy mà mọi người lại tập trung chính vào hội ném còn, nét xuân hứng khởi nhất trong dịp lễ hội lồng tồng. Ngôn Hoà, một thanh niên 25 tuổi ở Bó Lù, nói: "Xem bóng chuyền, cầu lông xã mình cũng hay, nhưng không hay bằng xem trên ti vi đâu. Ném còn thì ti vi không có, bản mình mới có".
Khách du lịch tham dự lễ hội cũng ít, có thể vì mưa rét... Song, lễ hội không vì ít khách mà không vui. Bà chủ nhà chúng tôi nghỉ đêm nói: "Mình làm lễ hội cho mình mà, mưa thì đợi tạnh, đi đâu mà vội. Mình tạ ơn Trời đất xã mình, cầu mùa xã mình chứ có phải chỉ làm cho khách xem đâu..." May thay, ngay đêm trước chính hội, một lễ lửa trại với hội hát múa của người Tày đã được diễn ra, vui vẻ và không hề khuôn sáo...
Người đi tham dự lễ hội đúng là chỉ "xem" là chính, nên mới kêu ầm lên là nhạt chất truyền thống, lên án biến lễ hội thành chợ. Nếu không phải chạy xe từ xa đến chốc lát rồi về, mà ăn ở với dân bản vài ngày, sẽ đo thấy cái hồn lễ hội vẫn sống thuần hậu ngay chính trong lời ăn, tiếng nói, cách nghĩ, niềm tin của người dân. Nơi vùng sâu vùng xa này, chỉ có lễ hội là dịp sinh hoạt cộng đồng đáng kể, ngoài nghi lễ truyền thống, thì đây là dịp để người lớn mua bán, để con trẻ gặp gỡ, trêu ghẹo và tán tỉnh nhau. Nếu bên cạnh lễ hội mà cái chợ lớn cũng tốt chứ, cái chính là tổ chức thế nào, và nhìn nhận lễ hội thế nào...
Bài toán du lịch
Chúng tôi nghỉ tại bản Pac Ngòi, một bản có khoảng 80 hộ, nằm trong một thung lũng hẹp, một bên là sông Pé Lèng, một bên là dãy Pù Lỳ và Phia Muàng. Phong cảnh sơn thuỷ hữu tình. Bản Tày nhà sàn cổ, sinh hoạt dân dã, giữ được nếp sống cũ là làm ruộng nương, đánh cá, dệt vải. Nhà nhà không có tường ngăn, đêm ngủ không cài cửa, xe máy để ở hè cửa sát với đường quốc lộ cả đêm, máy cày và bơm nước và trâu bò thì để ở ngoài đồng không cần trông nom... Nếp sinh hoạt này vùng nông thôn Bắc Bộ chỉ còn trong kỷ niệm bốn chục năm về trước. Một nét thanh bình hiếm có. Nơi đây lý tưởng cho việc du lịch sinh thái, và thực sự đã là địa chỉ cho các tua du lịch.

Quan sát cách làm du lịch của người Tày Pác Ngòi, có thể có cơ sở hy vọng vào tương lai Ba Bể. Khách du lịch có thể ở ngay trong nhà dân, trong những ngôi nhà sàn gỗ, ăn với gia chủ bên bếp lửa... Ông Ngôn Văn Toàn, một thiếu tá về hưu, một trong 6 chủ hộ có đăng ký đón khách, vui vẻ giới thiệu cho chúng tôi quyển sổ đăng ký ghi khách đến. Năm 2007, ông đón 567 khách quốc tế thuộc 25 quốc tịch, nhiều nhất là khách Pháp và có đến hơn 200 khách trong nước nữa. Nhà ông Toàn cũng như nhiều nhà ở đây, có khung dệt vải và có đàn tính. Ông Toàn có thuyền đưa khách du lịch lòng hồ, khép kín lịch trình cho du khách.
Du lịch lòng hồ Ba Bể chưa được bàn tay con người tác động nhiều. Không có mấy địa điểm để xem, chủ yếu là tham quan thiên nhiên hoang dã, mà thiên nhiên thì là cuốn sách câm lặng, cần có người hiểu biết thuyết giảng, hoặc chỉ kỳ thú với những người biết rõ giá trị của nó. Giá trị phổ biến của tua du lịch Ba Bể có lẽ là ở chỗ tìm hiểu văn hoá, giao lưu văn hoá. Nếu được sống vài ngày ngay tại một nhà người Tày Ba Bể, uống rượu ngô nhắm thịt trâu hun khói, ăn cá muối nướng với măng chua, nghe kể truyền thuyết những địa danh linh thiêng của Ba Bể mới thấy hết vẻ đẹp thuần phác của một vùng văn hoá.

Nhưng làm sao để toàn dân hưởng lợi nhờ du lịch Ba Bể? Nếu theo kế hoạch cũ, di dân toàn bộ khỏi vùng lõi Vườn Quốc gia, thì làm sao du khách còn được hưởng những tua du lịch như ở Pác Ngòi? Thời gian tới, giữ lại 8 bản, thì làm sao để giữ chân du khách, nếu như các bản Tày hiện đại hoá tự phát. Không còn nét văn hoá cổ thì còn ai muốn đến Ba Bể nữa?
Hiện tại, tại sao lại chỉ có 6 hộ có cấp phép đón khách, mà hầu như nhà nào cũng đón khách... Cơ quan quản lý hẳn đã quan liêu khi cho rằng, làm du lịch cần có cơ ngơi đàng hoàng, và đã đưa ra quy định thuế không hợp lý? Chúng tôi đã nhìn thấy những bó dây điện, dây dẫn nước như những vết cắt xoá mất cảnh quan một bản Tày thuần cổ, đó là điều đáng tiếc nhất mà ai cũng thấy, chỉ có người quản lý lại không thấy?
Đoạn cuối
Không gian văn hoá du lịch Ba Bể như vậy là một tổng hoà rất nhiều chiều: Lễ hội, cảnh quan, kiến trúc, tập tục, lối sống của người dân. Đến Ba Bể 3 ngày 2 đêm, đi một vòng du lịch lòng hồ, dự một lễ hội, tổng chi phí cho một người ở tại Ba Bể không quá 300.000 đồng. Không có tua du lịch nào rẻ hơn thế, mà chưa có tua du lịch nào để lại trong chúng tôi ấn tượng sâu sắc đến thế. Nhưng qua chuyến đi, cũng gieo vào lòng du khách nhiều băn khoăn lớn đến tương lai sinh tồn của không gian văn hoá du lịch nơi đây. Nếu không nhanh chóng giải bài toán này, thời gian sẽ xoá đi nhiều của cải vật thể và phi vật thể vô gía