Sự tích thần kỳ về một đô thị cảng

Lịch sử Hải Phòng nếu lần ngược về trước mấy trăm năm cũng đều nhất quán là vùng đất năng động, luôn luôn đi đầu với những biến cố đổi mới lay trời chuyển đất. Thời Trần, hầu hết lãnh thổ Hải Phòng lệ vào phủ Kinh Môn, dân cư thưa thớt. Cho đến cuối thế kỷ 19, miền đất duyên hải này là sào huyệt lý tưởng của những cuộc dấy binh chống đối. Vô cớ gì Dương Kinh của nhà Mạc ở đây, rồi căn cứ của Nguyễn Hữu Cầu ở Đồ Sơn... Những gì kinh đô chưa cảm thấy cũ kỹ, thì nơi cửa biển giao lưu với ngoại bang đã cảm thấy. Những gì kinh thành chưa biết thì ở thời đại giao thông chủ yếu là đường thuỷ, vùng cửa sông này đã biết rồi. Cho đến những năm tám mươi của thế kỷ này, điều đó vẫn đúng là như vậy.

Sự kiện quan trọng nhất thời thuộc Pháp cuối thế kỷ 19, gián tiếp thúc đẩy hình thành nên diện mạo Hải Phòng, có lẽ là việc chính quyền bảo hộ Pháp cử đến đây một viên Trú sứ tên là Bonnal. Chính Bonnal, với quyết tâm phi thường, đã là tổng công trình sư tạo nên thành phố tương lai.
Vào năm 1875, miền đất này lệ thuộc quan tỉnh Hải Dương, nhưng là một vùng bị bỏ quên, chỉ có một đồn binh nhỏ trấn giữ ở cửa sông Tam Bạc. Dãy phố Tàu phía Hạ Lý có những ngôi nhà đáng giá nhất cả vùng. Theo ghi chép của chính Bonnal: "Không cảnh sát, phố xá và các bờ sông bẩn thỉu, các hố chân đê hôi thối, không có đường đi vào mừa mưa khiến cho Hải Phòng kém hấp dẫn người Pháp". Nhưng Bonnal, viên Trú sứ mới, lại đứng về phía những thương nhân châu Âu, nhìn thấy tương lai của một thương cảng ở Hải Phòng. Cách làm của Bonnal có thể là một bài học không cũ về quy hoạch, về quyết tâm vượt qua mọi thủ tục quan liêu thời đó để xây dựng nên vùng đất "thuộc quyền quản lý của người Pháp". Tại sao ngày nay, chúng ta quy hoạch thành phố lại hay lấp các ao hồ, thậm chí "cống hoá" các con sông? Hải Phòng hiện đang lấp đoạn sông chảy qua Hồ Sen, cũng như Hà Nội đã lấp nhiều đoạn sông biến nó thành cống dẫn nước thải. Nhưng tại sao Bonnal lại chọn giải pháp chống lụt cho thành phố tương lai bằng cách đào một con kênh, mà ông ta tính nó dài 2,8 km, sâu 7 mét, rộng 50 mét đáy, rộng 70 mét trên mặt? Tại sao các cụ quan lại nhà Nguyễn khi chinh phục đồng bằng sông Cửu Long lụt lội, lại ra sức đào nhiều kênh như vậy? Phải chăng những tính toán của người Pháp và của quan lại triều Nguyễn là lạc hậu chăng? Bonnal tính rằng, phải đào gần 1,2 triệu mét khối đất, và phải trưng dụng đất đai ở vùng hai bên con kênh phục vụ lợi ích công cộng, lập thành phố tương lai. Ông ta đã đền bù cho những người dân mất đất bằng đất đai màu mỡ ở Kiến An, ngoài ra, ông ta không cho chia nhỏ những mảnh đất hiện có của người Pháp, ngăn cấm mọi sự giao dịch đất đai trước khi quy hoạch để tránh sự đầu cơ đất. Cuối cùng Bonnal đã huy động được lực lượng phu khổng lồ để thực hiện dự án của ông. Trong ghi chép của Bonnal, ông ta cho chúng ta biết, cách huy động dân công của ông là hoàn toàn dựa theo "luật pháp của người bản xứ", tức là dựa trên chế độ đi phu không công để đắp đê điều, sửa sang đường xá có từ lâu đời của các triều đại phong kiến, mà không phải là mệnh lệnh của chính quyền bảo hộ. Ông ta chỉ lợi dụng thời gian nông nhàn, lại cung cấp khẩu phần ăn tốt và có tiền công nhất định lấy từ ngân khố của tỉnh, khiến cho người đi phu tự nguyện và hăng hái. Nhưng điều đó khiến cho các quan chức ở Hà Nội nổi giận vì viên Trú sứ không xin tiền "mà chỉ với thiết chế của dân bản xứ, dám xấc xược tạo ra một thành phố" và họ "nóng lòng chờ đợi cơ hội để làm nó sụp đổ".
Hồi đó, Lạng Sơn đang có biến cố chiến tranh của người Việt chống chính quyền Pháp, Toàn quyền Pháp đã huy động dân binh bao vây công trường xây dựng Hải Phòng, dùng điện tín ra lệnh cho Bonnal lùa dân phu đi phục vụ đánh nhau ở Lạng Sơn. Nhưng Bonnal cho biết, ông "sẵn sàng từ chức công sứ để không a tòng theo một hành động mà tôi cho là lạm quyền không thể tha thứ được". Dĩ nhiên, cuộc lùa dân phu đó không thành, nhưng công trường của ông Bonnal đã bị ngừng trệ, phải đến một năm sau mới tiếp tục và thắng lợi.
Ngày nay, khi đọc lại những dòng viết của Bonnal, tôi quả thực cảm phục tinh thần của người công sứ Pháp này. Nếu không phải ông, chắc gì đã có Hải Phòng. Cách làm của ông xứng đáng để cho hậu thế nghiền ngẫm nhiều điều thú vị. Những bài giảng về sự bóc lột thuộc địa của người Pháp chúng ta đã học quá nhiều, nhưng bài học về cách xây dựng và đầu tư của người Pháp thì hầu như chúng ta đã và đang lãng quên. Hải Phòng ngày xưa có một vài địa điểm mang tên Bonnal, nhưng rồi mới biến mất. Người già vẫn gọi khu vực vườn hoa ngày nay là sân Bonnal. Tuy rằng Bonnal là viên công sứ Pháp, trước khi đến Hải Phòng, ông ta đã là Trú sứ tại Sơn Tây, mộ phu phục vụ quân đội Pháp đánh nhau với quân khởi nghĩa ở Lạng Sơn, nhưng với Hải Phòng, thì ông ta hoàn toàn là một người có công lớn. Phải chăng, Hải Phòng nên có một địa danh lưu dấu ấn của Bonnal. Với tư duy bao dung và rộng mở ngày nay, ông ta hoàn toàn có thể được ghi công sau những Yecxanh, Alechxan De Rop, Du-me...
Cảng già nua?

Như vậy, lịch sử ra đời của thành phố Hải Phòng với ý chí của viên Trú sứ Bonnal đã tiềm ẩn trong nó một sự "phá rào", nói theo ngôn ngữ của những năm tám mươi thế kỷ hai mươi. Tập thể lãnh đạo thành phố dưới sự chỉ đạo của ông Đoàn Duy Thành mang lại cho Thành phố hy vọng về một cuộc lột xác mới. Nhưng tại sao sau hai mươi năm, người Quảng Ninh lại nhìn về Hải Phòng với cái nhìn kẻ cả, anh chị như thể Hải Phòng chỉ là một thị trấn láng giềng? Tâm lý ngang tàng anh hùng đất Cảng bị giáng một đòn quá nặng.
Cơ sở tiềm tàng làm nên cái tên đầy tự hào là "thành phố cảng", đó chính là cảng Hải Phòng, thì giờ đây chịu nhiều thách thức. Dự án cảng Cái Lân đã hình thành. Tại phía Bắc, tương lai của cảng Nghi Sơn (Thanh Hoá) đầy triển vọng, đấy là chưa nói miền Trung với cảng Vân Phong, và cảng Bà Rịa Vũng Tàu ở miền Nam... Vị thế thành phố Cảng của cả nước, của khu vực đã mất. Hải Phòng còn lại gì? Khoảng những năm cuối cùng của thế kỷ hai mươi, tôi làm báo, nhận được nhiều thư phản biện, lên án mạnh mẽ khi triển khai làm cảng Cái Lân, muốn đầu tư tập trung vào cảng Hải Phòng. Tôi tự nhận là người Hải Phòng, gắn bó với Hải Phòng, tâm tư tôi muốn ủng hộ những tiếng nói ấy và tôi đã tham khảo ý kiến của các chuyên gia Cục Hàng hải. Buồn thay, các chuyên gia có lý của họ. Cảng Hải Phòng nếu không chuyển mình ngay, có thể sa bồi và mất lợi thế rất nhanh, nhất là sau khi nối đảo Đình Vũ với đất liền. Dự án nâng cấp cảng do Nhật Bản tài trợ dù có triển khai tốt đến mấy, cũng chỉ là biện pháp tình thế. Trong lịch sử, đã có tiền lệ biến mất một thương cảng cỡ như Phố Hiến, thì viễn cảnh Hải Phòng trở thành thành phố cổ cũng không có gì lạ lắm.
Lật lại những ghi chép của người Pháp, lại chính Bonnal cho hậu thế một thông tin đáng suy nghĩ. Vào thời của Bonnal, người Pháp đã nhìn thấy Hải Phòng chỉ là một cảng tạm. Theo ông ta, ngay thời đó vấn đề chuyển cảng mới "đã gây ra cuộc tranh cãi sôi nổi, đặc biệt trong giới hàng hải". Họ đã xem xét Quảng Yên, Hòn Gay, mà chưa quyết, "nhưng tất cả đều nhất trí yêu cầu chính phủ Pháp bỏ Hải Phòng vì không có lối vào cho các tàu trọng tải lớn" và " bị các dòng chảy rộng và xiết cắt ngang cắt dọc tạo thành các trận ngập lụt lớn và tính ổn định kém của nền đất...". Tuy nhiên, lý do để người Pháp như Bonnal vẫn xây dựng thành phố cảng vì nếu có cảng nước sâu ở Quảng Yên hay Hòn Gay thì Hải Phòng cũng vẫn là cảng sông... Như vậy, cho đến một trăm năm sau, việc khai thác cảng Hải Phòng là đã quá dài, đã đến lúc cơ sở hạ tầng cảng Hải Phòng già cỗi không còn đáp ứng được yêu cầu phát triển mới nữa. Ngày nay, dự án chuyển cảng Hải Phòng ra xa hơn phía biển đã có, khu vực Lạch Huyện của Cát Hải có thể trở thành một cảng biển tuyệt vời. Nhưng giá như dự án ấy được hoạch định trước, thực hiện trước khi làm cảng Cái Lân thì mọi việc có thể đã khác. Những người chống việc làm cảng Cái Lân cũng có lý của họ, vì sự xây dựng cảng này vừa tốn kém, lại vừa sát với Hạ Long, nguy cơ tàn phá môi trường Vịnh Hạ Long không phải nhỏ. Giá như việc chuyển cảng Hải Phòng cho đến hôm nay đã hoàn tất rồi thì chắc hẳn thành phố đã có tư thế khác, diện mạo khác, chứ không cam chịu tụt hậu như thời gian qua. Chuyện cảng chỉ là một chuyện trong rất nhiều sự kiện khiến cho Hải Phòng mất thế, công và tội của những con người, ngày nay có thể không cần ngoái lại nữa, tập trung vào việc của ngày nay, bề dày lịch sử sẽ như một bộ lọc công bằng. Và việc chuyển cảng càng nhanh thì mới có thể đồng bộ được với việc khai thác Đình Vũ, biến khu vực Đình Vũ, Cát Hải thành một khu dịch vụ cảng biển tầm cỡ kiểu Hồng Kông, Singapo.
Câu hỏi về kinh tế biển?
Hải Phòng có nhiều khu vực địa lý, có nông nghiệp, có công nghiệp, có cảng biển... Nhưng thú vị nhất, làm nên Hải Phòng chính là khu vực biển. Thuật ngữ "kinh tế biển" tôi đã nghe nói vài chục năm nay. Nhưng cho đến nay, nếu có một cái nhìn tương đối nghiêm túc đánh giá thành quả của việc xây dựng kinh tế biển, nếu anh là cán bộ nặng lòng với Hải Phòng, hẳn là anh không thể lạc quan. Những gì làm được không thể phủ nhận, nhưng nếu cứ làm như vậy, chắc sẽ không khỏi tụt hậu, nói gì tăng tốc phát triển.

Hải Phòng có hai đảo lớn là Cát Bà và Cát Hải. Tôi đã là dân cư Cát Hải thời cách đây hơn ba chục năm. Hơn ba chục năm có thể coi như khoảng thời gian sống làm việc của một đời người. Về thăm lại đảo, các thày cô giáo thời đó mới ra trường, thanh xuân phơi phới, thì bây giờ đã hưu, tóc bạc phơ. Có ông thày nói với tôi: "Chú thấy bộ mặt của đảo khác rồi. Đi lại sướng hơn, đường xá tốt. Thời đã khác nhưng thế lại kém đi".

Hồi xưa, đi từ Hải Phòng ra Cát Hải là cả một sự nhiêu khê, đến Cát Bà còn khó khăn hơn và chỉ có đường biển với ca-nô chợ. Nhưng ngày nay thì khác. Người Cát Hải về Đình Vũ hết 60 phút đi phà, sang Cát Bà chỉ 25 phút. Ô tô, xe máy có thể đi ra đảo bình thường, điều mà hơn 10 năm trước chưa hề có. Điều trăn trở mà ông thày tôi gọi là "thế" của người Cát Hải vẫn là bài toán nghề nghiệp, là kiếm sống, nói rộng ra là lo nghĩ cho thế hệ tương lai. Đảo Cát Hải khi xưa có 2 khu vực dân cư, khu vực Mắm và khu vực Muối, cách phân loại dân dã dựa vào nguồn sống chính của người dân. Người làm mắm quy tụ quanh Xí nghiệp nước mắm, thương hiệu có tiền thân từ thời nhà tư sản Vạn Vân, còn người làm muối rải rác ven đảo. Mắm hay muối cũng đều trông vào con cá. Cát Hải thời tôi sống dường như bãi biển hoang vu hơn, vùng ngập nước với xú, vẹt, với năn, nác nhiều hơn. Người đánh cá trên đảo hồi ấy chủ yếu là đánh bắt ven bờ, dựa vào thiên nhiên. Bơi con thuyền nhỏ trên bãi có thể bắt cá, vác cái cuốc ra bãi có thể kiếm vô số con sâu biển (sau này nó là đặc sản xuất khẩu đấy), ra bãi trước nhà nhấc lên một nắm năn lấy củ rang bùi như lạc... Bây giờ thì sao? Những khu ngập nước hồi xưa đã khoang vùng thành hồ ao nuôi thả, nhiều diện tích đổ cát làm nhà. Sinh vật thuỷ sinh dường như rủ nhau trốn đâu rồi. Đồng muối chia nhỏ, những ô vuông bé tý, giống như những mảnh đất phần trăm trồng rau màu của nhà nông hồi hợp tác hoá. Hình ảnh về đồng muối bao la không còn nữa. Tôi nói chuyện với một ông chủ doanh nghiệp nước mắm, ông ấy cười: Muối chúng tôi mua hàng vạn tấn, phải mua của người thu gom, họ nắm kênh phân phối, còn họ mua ở đâu thì chịu". Số phận người làm muối ở đảo không khá hơn tình hình chung diêm dân ở nước ta, một nghịch lý khó nuốt được ở một nước có bờ biển hàng ngàn cây số, mà phải nhập muối, mà diêm dân sống vất vưởng hàng chục năm qua.

Những người có tuổi trên đảo nói: "Gần thì không còn cá, xa thì không có thuyền..." Thành thử, con em dân đảo lớn lên đều nhìn ra xa, đi làm tứ chiếng, làm bất cứ việc gì để kiếm ăn. Cô hàng nước mắm Quang Hải ở gần bến phà bảo tôi: "Nhà nào có được 1 người vào làm ở xí nghiệp nước mắm. coi như ngày xưa có cái sổ gạo" Đã có hàng nghìn bài báo kinh tế, phân tích chi ly quan hệ của sự phát triển kinh tế và sự bền vững. Tại vùng biển như Cát Hải, sự phát triển bền vững có thể cảm nhận được, chẳng cần số liệu nhiều lời. GDP tăng trưởng, cơ sở hạ tầng khá lên, nhưng cơ sở kinh tế, việc làm, các vấn đề xã hội, vấn đề môi trường thì không tăng tương ứng, có thể nói là có chỗ đi xuống.
Nếu cảng Hải Phòng mới chuyển ra đây, nếu có cây cầu nối với đất liền, thì chắc rằng cư dân Cát Hải không còn chông chênh tính kế sinh nhai nữa, với dân số không bằng một phường trong thành phố, các dịch vụ cảng biển sẽ thu hút họ, nhân công từ đất liền đổ ra, hình thành một vùng kinh tế mới, ly "nông" bất ly hương. Nếu có cảng mới đúng như dự án, thì khu vực Cát Hải sẽ là mặt tiền của cả hai đảo lớn của huyện đảo này, khu vực Cát Bà trở lại là sân sau "tĩnh lặng" làm du lịch. Chắc chắn đến khi đó, việc di chuyển các cơ quan huyện lỵ từ đảo Cát Bà về Cát Hải hoặc chuyển toàn bộ thị trấn về phía Tây Bắc đảo là chuyện sẽ phải tính đến. Tiên đoán của tôi chả biết có sự thực không, nhưng một thực tế là thị trấn Cát Bà hiện nay nằm trên dải đất hẹp gần vịnh biển có bãi tắm, gần vườn quốc gia Cát Bà, rất khó phát triển mở rộng. Rồi đây, du lịch phát triển, bãi tắm, vịnh biển Hạ Long và vườn quốc gia phải nối với nhau thành một chỉnh thể thì đất đó "tấc đất tấc vàng", mặt tiền kinh tế lại là cảng Lạch Huyện, vậy thì các cơ quan huyện đóng đô tại Cát Bà chưa phải là đắc sách.
Lại nói về kinh tế biển, đến Cát Bà, đứng trên tầm cao nhìn xuống vịnh biển, hàng trăm nhà nổi nuôi cá lồng bè trên một vùng vịnh hẹp giao tiếp với cửa ngõ Hạ Long, nhìn vui mắt nhưng thực ra hình ảnh ấy tiềm tàng một nguy cơ làm ô nhiễm môi trường, làm giảm hiệu qủa khai thác của khu du lịch.
Cũng là bài toán khai thác môi trường biển, đi một đường xuyên đảo Đình Vũ, có thể thấy rất nhiều vấn đề khó hiểu, lo ngại khôn nguôi. Đảo Đình Vũ vốn là một khu sinh quyển ngập nước. Thuỷ triều lên, phần lớn đảo cũ chìm trong nước. Qua mấy chục năm chinh phục, đảo đã nối với đất liền, hình thành một khu kinh tế mới. Bao nhiêu đất đã mang từ thành phố ra đổ lên đó, bao nhiêu cát đã bơm từ lòng cửa sông phun lên đó. Được một diện tích đất trên đảo đâu phải là được cả. Có cái mất mà mất vĩnh viễn khó lường được chứ. Trước đây, dân đi săn thường đến đảo bằng con đường hẹp săn bắn vịt trời, chim chóc, câu cá... Và, dưới làn nước nơi đây là cả một thế giới rong rêu, rau câu nhiều vô kể. Bây giờ, nếu đi ra phà Đình Vũ, vẫn bắt gặp những toán người vớt rau câu trên những diện tích đầm bãi đang thu hẹp dần dần. Khu công nghiệp là một thực tế rõ ràng, hợp lý ở vùng đất mới này, nhưng phải chăng những vùng đầm bãi Đình Vũ sẽ biến mất, những mỏ rau câu và thế giới thuỷ sinh của nơi này sẽ biến mất? Năm ngoái, tôi đi qua Đình Vũ vẫn còn gió biển mát rượi tanh mùi rau câu, thế nhưng tuần trước, đi qua đó để về thành phố, lạ thay mùi xú uế kinh hồn. Mùi nồng nặc ô nhiễm ấy đuổi theo tôi một đoạn quá dài. Hoá ra người ta đang chôn rác ở mom đất gần biển, cái bãi rác Tràng Cát bị dân cư nổi giận chống lại chính quyền giờ không còn ở Tràng Cát được nữa, thì bây giờ được chuyển ra đây. Đình Vũ ở hướng chính đông thành phố, là đầu gió, hỡi ôi tại sao lại mang rác ra đây chôn lấp. Chôn lấp kiểu gì không biết, chôn nơi mà đất và cát tính bằng tiền để san lấp mặt bằng, hỏi rằng người ta chôn sâu không, lấp thế nào? Đó là chưa nói việc chôn lấp rác đã làm huỷ hoại môi trường ven biển ra sao?
Có một tổ chức của một nước Bắc Âu đã viện trợ cho Việt Nam để trồng lại những rừng sú, vẹt, khôi phục sinh thái ngập nước ven biển ở Việt Nam. Tôi thấy lạ, cùng một lúc, người ta cứ tàn phá đi, rồi lại mất công mất của làm lại. Lạ lùng.
Cái giá... vô giá của xi măng.
Lại nói về môi trường... Không chỉ là môi trường biển. Các nhà khác làm được nhiều cho miền đất mình yêu dấu, công trình nhìn thấy, sờ thấy, nhà văn chỉ có chữ, có tâm sự. Đó là phút dừng trong nhịp sống hiện tại, cái gạch nối quá khứ với tương lai. Bao giờ câu hỏi về được - mất cũng nhức nhối, khó chịu. Hai mươi năm qua, người Hải Phòng đã dày công xây đắp lên thành phố, sẽ có người bảo: Bao nhiêu thành quả anh không nói, không động viên, nay anh ném vào công cuộc xây dựng của người ta toàn chuyện lo ngại ư? Đành vậy, tâm sự thì nói thật, sự thật mất lòng, biết mà không thể không nói vậy.
Từ bao lâu rồi, ống khói xi măng từ biểu tượng của công cuộc công nghiệp hoá, biểu hiện của sự phấn khởi đổi đời, rồi chính những ống khói ấy lại chuyển thành hình ảnh lo ngại về ô nhiễm, là biểu tượng của công nghệ lạc hậu lúc nào không biết. Vẫn nhà máy ấy, ngày hôm trước còn là niềm tự hào, ngày hôm sau là món nợ. Việc chuyển nhà máy xi măng Hải Phòng mới ngày hôm nay gần như đã hoàn tất, nhưng phải chăng sau sự chuyển dời ấy, không còn điều gì đáng suy ngẫm nữa?
Hiện tại, một góc của huyện Thuỷ Nguyên đã trở thành khu vực công nghiệp sôi động của thành phố. Trước đây, khu vực Minh Đức của Thuỷ Nguyên chỉ có một nhà máy hoá chất, loanh quanh làm bột nhẹ, nhưng sau khi xuất hiện Xi măng Ching Phong, rồi nhà máy đóng tàu Nam Triệu, thì Minh Đức nhanh chóng sầm uất. Xi măng Hải Phòng mới cũng chuyển đến khu vực này, kề cận với Xi măng Ching Phong. Với triển vọng một nhà máy nhiệt điện mới sắp xây dựng, khu vực này có hàng vạn công nhân, thật sự thay đổi bộ mặt đô thị Hải Phòng.
Điều băn khoăn day dứt nhất của tôi chính là việc hiện diện của những nhà máy xi măng ở một vùng lãnh thổ miền Đông Bắc, trong đó có cả ở Hải Phòng, có cả ở Hải Dương và Quảng Ninh.
Một vùng đất ven sông Bạch Đằng, từ hạ lưu khoảng Phà Rừng cho đến phía thượng lưu Phà Đụn, nơi giáp ranh ba tỉnh Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương có đặc điểm địa chất đặc biệt, vẫn gọi là vùng bán sơn địa. Trong sử liệu, thư tịch cũ đã gọi khu vực này là Hạ Long cạn. Lô xô hàng trăm quả núi đá vôi mọc giữa đồng bằng, quây quanh một dãy núi đá vôi đồ sộ trên địa phận Tràng Kênh, Thuỷ Nguyên, kéo dài đến Mạo Khê (Quảng Ninh). Tâm điểm của khu vực này theo truyền thuyết chính là gốc của cột chống trời, do Thần trụ trời sau khi khai thiên lập địa còn vết tích là các quả núi đã vôi vương vãi khắp nơi. Nơi đây, xưa kia được coi là thắng địa, một vùng di tích, đặc biệt là các di tích thời Trần. Các hang động truyền thuyết đã từng được Trần Quốc Tuấn dấu gỗ chuẩn bị cho trận Bạch Đằng, lại có các hang động di tích thời cận đại gắn liền với các cuộc kháng cự chống Tây của nghĩa quân Đốc Tít, nghĩa quân Bãi Sậy, có di tích núi Kính Chủ, núi thiêng từ thời Lý... Tôi lớn lên ở thị trấn Kinh Môn, nhìn sang bên kia sông Kinh Thày, là cả một vùng non nước những dãy núi đã vôi xanh xẫm của Tràng Kênh, trong đó có dải núi lớn gù lên như con sư tử khổng lồ. Chỉ sau ba mươi năm, dãy núi đá Tràng Kênh giờ đây giống như con sư tử cụt đầu, chỉ còn mỏm lưng và đuôi. Bao nhiêu hòn núi đá của Hạ Long cạn đã biến mất để thành xi măng rồi? Tuần trước, tôi có đến khu vực Nhà máy xi măng Hải Phòng mới, dân địa phương nói rằng, nhà máy xây dựng trên mặt bằng trước kia là một quả núi lớn đã bị Nhà máy Ching Phong ăn gọn. Bên cạnh nhà máy Xi măng Hải Phòng mới còn có một quả núi đã vôi được bảo quản kỹ càng, đó là quả núi có hang dấu cọc Bạch Đằng... Tôi tận mắt thấy những dãy núi đang bị ăn nham nhở, bị biến mất từ từ không thể nào cưỡng được. Ông anh tôi kể rằng, khoảng đầu những năm sáu mươi, tức là cách đây khoảng bốn chục năm, anh và các trai tráng phố huyện Kinh Môn còn sang sông Kinh Thày, đến khu vực Tràng Kênh này đốn củi, núi Tràng Kênh còn hàng đàn khỉ, ném bó củi trên đỉnh núi xuống là rơi xuống ruộng lúa nước. Một đặc điểm của các quả núi vùng này là thế, chân núi gọn như thể hòn xôi hòn oản mọc trên đất ruộng vậy, cảnh quan hùng vĩ, lạ lùng...
Có lẽ, mật độ các nhà máy xi măng của khu vực Minh Đức (Hải Phòng) còn thua xa so với khu vực các xã khu đảo của huyện Kinh Môn, nơi có nhà máy xi măng Hoàng Thạch, Phúc Sơn và hàng chục nhà máy nhỏ khác. Nhưng cộng gộp các nhà máy xi măng khu vực này, hàng năm công suất thực tế có thể lên đến hơn 10 triệu tấn, và còn tăng nữa vì các nhà máy đang ra sức mở rộng. Các chuyên gia tính rằng, cứ tốc độ khai thác thế này chỉ khoảng ba bốn chục năm nữa, những quả núi đá vôi của vùng này sẽ bị san bằng, khi ấy muốn tiếp tục làm xi măng, phải khai thác đá như người ta khai thác than, đào tiếp xuống lòng đất.
Đã có quá nhiều bài báo nói về nỗi thống khổ vì ô nhiễm của vùng Hoàng Thạch, Minh Tân (Kinh Môn, Hải Dương). Vùng Minh Đức chưa phải hứng chịu sự ô nhiễm như vậy, nhưng việc trả giá bằng ô nhiễm chỉ là mất mát nhỏ bé, mất mát không đáng kể so với việc mất đi cảnh quan, tài nguyên đất nước vô giá, một bài toán được mất mà mỗi thời lại có lời giải khác nhau, càng kinh tế phát triển, cái giá của cảnh quan mất đi càng lớn.
Có lẽ, nhu cầu về xi măng để phát triển đất nước rất cấp bách, nhưng đã đến lúc tính giá thành của một cân xi măng không chỉ có chi phí khai thác đá, chi phí thăm dò. Hàng triệu triệu năm mới có được một trái núi. Núi non sông biển chính là đất nước chứ đâu. Nhập xi măng dù có cao hơn so với làm trong nước như hiện nay, nhiều chuyên gia cho rằng vẫn là quá rẻ. Một anh bạn ở Nhà máy xi măng bảo tôi: Tại sao Đài Loan có nhiều núi đá vôi đến thế mà họ cứ ra nước ngoài làm xi măng là thế nào? Trong những ngày lang thang ở Minh Đức, tôi còn gặp một chủ doanh nghiệp tư nhân xuất khẩu vôi sang Đài Loan nữa chứ.
Hồi xưa, có một vị lãnh đạo cấp cao đến thăm xi măng Hoàng Thạch, nói một câu lạnh lùng: "Cứ đất và đá là làm ra xi măng, tại sao ta không làm thật nhiều vào. Núi đá và đất chúng ta không thiếu". Nói như thế, chả hoá ra đất và đá nước ta rẻ rúng quá sao? Lãnh thổ không phải là vô hạn. Tôi là người con của vùng Đông Bắc này, tôi đau lòng khi nghĩ đến một ngày, những dãy núi của vùng Đông Bắc biến mất, cả vùng thành bằng địa. Chúng ta đang đứng trước nguy cơ có tội với các thế hệ mai sau. Chúng ta đang dùng chính cơ thể mình làm thức ăn nuôi cơ thể, một sự đấu tranh sinh tồn không có tương lai. Đây là vấn đề mà không chỉ lãnh đạo một thành phố như Hải Phòng giải được. Bài toán quy hoạch phát triển dài hạn này có tầm quốc gia, tầm mức vĩ mô. Nhà nước chúng ta có quá nhiều việc phải làm, nhưng tôi ngạc nhiên các nhà khoa học vật liệu mới ở đâu, các nhà kinh tế du lịch, các nhà sử học, các nhà môi trường... họ ở đâu rồi không tham mưu cho Nhà nước? Trước đây, chúng ta hay nói về các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nói ví von "giá từng thước đất". Ngày nay, tư duy về xây dựng kinh tế đất nước, trớ trêu thay, có phải chúng ta đã không ý thức được "giá từng thước đất" chăng? Riêng tôi, tôi cho rằng, đã đến lúc Nhà nước ta cần phải quy hoạch lại, cân đối lại việc sản xuất xi măng. Đã đến lúc phải gióng lên cảnh báo việc phá vỡ núi non cảnh quan một số vùng đất nước.
Được mất vô lường...
Tôi không có ý lấy chủ đề những tâm sự này là nói về được- mất. Tự nhiên tâm sự thường hàm chứa sự hoài cổ mà thôi. Nhưng liệu có hy vọng hướng đến tương lai nào mà không bắt nguồn từ dòng chảy thời gian sống đã nuôi dưỡng người ta?
Có một anh bạn tôi vốn đã làm quan chức thành phố, giờ đã đến giảng dạy ở một trường đại học danh tiếng của Mỹ nói rằng: Một số dự án lớn Hải Phòng không làm được có khi lại là điều may cho Hải Phòng chăng?
Dự án không thành công mà anh nhắc đến đầu tiên là toà nhà dự định mọc lên ở vị trí Quán Phong Lan cũ, bên cạnh những quán hoa truyền thống ở dải vườn hoa trung tâm sát Nhà hát Thành phố. Do đối tác không có khả năng tài chính hay vì lý do gì nữa mà dự án đổ vỡ, bị rút giấy phép, nhường chỗ cho một vườn hoa, như một dấu nối đẹp với dãy vườn hoa kéo dài từ hồ Tam Bạcđến cổng cảng. Nếu như ở đó toạ lạc một toà nhà đồ sộ như dự án, thì không biết khu vực ấy sẽ ngịch mắt thế nào, và khi đó Nhà hát Thành phố chắc sẽ giống như cái nhà ngang, công trình phụ so với toà nhà chính ấy... Dự án không thành lại là điều may lớn.
Cái dự án lớn nữa không thành công mà anh nhắc đến, đó là Khu chế xuất Đồ Sơn. Đây là khu chế xuất khởi động sớm, thuộc loại hàng đầu so với cả nước. Lúc đó Tân Thuận và Linh Trung của TPHCM cũng mới hình thành, chứ chưa phải gần bảy chục khu công nghiệp như bây giờ. Tôi còn nhớ quang cảnh trống giong cờ mở ngày động thổ, và hôm sau thì báo Lao động tường thuật trong buổi lễ động thổ ấy, có vị quan chức dự lễ đã làm... gãy cuốc. Người chuẩn bị đã tiện cán cuốc bằng gỗ rất đẹp, quên hỏi vì sao ở quê người ta thường làm cán cuốc bằng tre. Không biết có phải vì điềm gãy cuốc là không lành không, mà sau đó, liên doanh xây dựng hạ tầng chỉ làm được cái hàng rào rồi ngừng hẳn. Bây giờ, con đường lớn nối Đồ Sơn với thành phố đã xong, tuyến xe buýt đã bước đầu khởi động, Đồ Sơn bắt đầu giống như một quận nội thành, khu vực dự định làm khu chế xuất chỉ cách Khu du lịch Đồ Sơn vài cây số, thế mới lạ cho tầm mắt những người hoạch định. Khi đó Hải Phòng chưa có khu Normura, chưa ai nhắc nhiều đến Đình Vũ, đường Đồ Sơn chưa làm xong, đường đến sân bay Cát Bi chưa có, người ta nghĩ đến Đồ Sơn là nghĩ đến một nơi xa lắm chăng? May mà cái dự án ấy không thành. Hải Phòng chả nhẽ thiếu đất làm công nghiệp đến nỗi đặt một khu chế xuất sát nách khu du lịch? Dự án đổ, có lẽ là sự may mắn lớn. Tình thế này đâu chỉ có ở Hải Phòng. Tỉnh Hải Dương sát với Hải Phòng có lẽ rồi đến lúc sẽ phải nhìn nhận lại và trả giá về cách phát triển các khu công nghiệp ven đường số 5. Con đường quốc lộ huyết mạch đã thành đường trong phố, trong khi Hải Dương còn có Chí Linh, Kinh Môn những vùng đồi núi vốn phát triển công nghiệp, giao điểm với những trung tâm công nghiệp lớn của cả vùng thì bỏ đấy, lấy ruộng đất nhất đẳng điền bao đời nay hai bên đường 5 để làm khu công nghiệp. Nhưng Hải Dương không may mắn bằng Hải Phòng, bởi vì các khu công nghiệp của họ triển khai nhanh chóng, mà không "được" bỏ đi như Khu chế xuất Đồ Sơn.
Đồ Sơn – viên ngọc ngủ quên...
Nói đến Đồ Sơn... Chuyện Hải Phòng không thể bỏ qua chuyện Đồ Sơn. Nhưng đó là nói đến một vùng đất nhạy cảm. Không nơi nào mà tốt và dở, đẹp và xấu, cũ và mới, hy vọng và thất vọng lại chung sống khó lường như ở Đồ Sơn. Những ngày này, dư âm về vụ "ăn đất" ở Đồ Sơn còn vang vọng lắm. Quan chức đã bị khởi tố, tham nhũng đã lộ mặt, song tương lai của Đồ Sơn thì chưa hiện ra rõ nét lắm đâu. Qua bao nhiêu năm tồn tại, đổi mới của Đồ Sơn du lịch hiện ra ở hai việc, một là khu Casino, hai là con đường thứ hai ven biển. Trớ trêu thay, Đồ Sơn mới vẫn lại dựa vào một Đồ Sơn cũ, đó là Đồ Sơn lễ hội. Hội chọi trâu vẫn là một nốt son thu hút khách đến với giải trí lành mạnh với vùng biển này, chứ không phải là bãi biển.
Lịch sử khai thác Đồ Sơn bắt đầu từ việc Pháp cho xây dựng con đường từ Hải Phòng đến Đồ Sơn vào năm 1891, cho đến 18/5/1909, Đồ Sơn được nâng cấp thành đô thị bằng một Nghị định của Toàn quyền Pháp và 2 năm sau, chia thành 3 khu nghỉ mát. Cho đến nay, việc phân chia 3 khu vẫn còn tồn tại một cách không chính thức.
Một bài báo vào năm 1941 cho biết rằng, lúc đó Đồ Sơn đã có "150 biệt thự, 3 khách sạn và nhiều nhà hàng ăn không đủ để phục vụ du khách"
Căn cứ những gì bài báo đó tả lại, thì Đồ Sơn ngày hôm nay có nhiều lĩnh vực hoạt động kém hơn hẳn cách đây hơn 60 năm. Hồi đó "Câu lạc bộ Hàng hải có cơ sở khá duyên dáng. Thuyền đơn, ván lướt, thuyền máy, phao hơi... Hàng năm, các cuộc đua thuyền thu được thành công và lôi cuốn những người nhiệt tình với thuyền buồm..." Du lịch Đồ Sơn từ chỗ là địa chỉ hàng đầu miền Bắc, bây giờ đang tụt xuống hàng chiếu dưới.
Ngay từ những năm bốn mươi của thế kỷ trước, nhà nước bảo hộ mặc dù phát triển khu du lịch phục vụ quan chức, cũng đã chú ý đến quy hoạch tổng thể của cả khu du lịch và dân cư, họ dự định "xem xét lại quy hoạch các làng cá, trong đó mỗi nhà từ nay sẽ có một vườn rau". Đáng tiếc là sau đó chiến tranh xảy ra, người Pháp bỏ dở những dự định của họ.
Trong khoảng hai chục năm gần đây, Đồ Sơn mất dần khách đến tắm biển bởi vì biển Đồ Sơn nước đục ngầu. Bán đảo này nằm giữa hai cửa sông Lạch Tray và Văn úc, hứng chịu phù sa, và tình trạng ấy không thể sớm khắc phục được. Có chăng, bàn tay con người nên tác động vào Đồ Sơn bằng những công trình du lịch mới, mà điều đó thì ở Đồ Sơn mới chỉ dừng ở việc xây dựng khách sạn mà thôi. Có một "mầm non" casino thì dường như nó mới chỉ có địa lợi, chứ chưa được thiên thời và nhân hoà để phát triển. Đã có ai đặt vấn đề thẳng thắn rằng, làm một cuộc khảo cứu du khách đến Đồ Sơn làm gì, vui chơi giải trí thế nào chăng? Nhà nước thu được từ các dịch vụ ở Đồ Sơn bao nhiêu? Quản lý casinô là vẫn đề nhạy cảm, quản lý các dịch vụ giải trí ở Đồ Sơn cũng là nhạy cảm, nhưng không phải không có các hình mẫu khác để noi theo.
Nếu dũng cảm gọi đúng tên của các dịch vụ ở Đồ Sơn, làm cho nó thành một khu ăn chơi thực thụ, quản lý nó thì về dài hạn chỉ có lợi cho kinh tế, cho việc giải quyết các vấn đề xã hội mà thôi. Tấm gương Trung Quốc đã biến Hải Nam thành một trung tâm cạnh tranh với Ma Cao và Hồng Công là một ví dụ. Tiềm năng vô giá ở Đồ Sơn chưa được đánh thức. Nếu ai đã một lần ra đảo Dấu, thì đó là một lần phát hiện tuyệt vời về thiên nhiên hoang dã, hòn đảo đẹp đến nỗi tôi đi cũng không dám bước mạnh, cứ như sợ nó biến mất vậy.
...Hải Phòng trong lòng tôi, một vùng quê gắn bó, một quê hương thứ hai của tôi, tôi muốn viết một thiên bút ký để ngợi ca, nhưng tôi biết sau này tôi sẽ viết, chứ chưa phải bây giờ. Cũng như tôi và chúng ta đều yêu đất nước, nhưng sự đau đớn, bức xúc vì đất nước ta đang tụt hậu so với khu vực, với thế giới cũng chính là xuất phát từ tình yêu với quê hương đất nước đấy mà thôi...