Kinh Môn vùng đất thiêng
Kinh Môn ngày nay là một huyện của tỉnh Hải Dương, một huyện tương đối đặc biệt so với các huyện khác của tỉnh vốn được mệnh danh là tỉnh nông nghiệp. Một dãy núi đất trong hệ thống núi vòng cung Đông Triều làm xương sống của cả huyện. Về núi non, Kinh Môn cảnh trí tương đối giống Chí Linh, nhưng Kinh Môn còn đặc biệt là có những núi đá xanh rải rác, sông bao bọc, cánh đồng rộng lớn. Trong các sách thường phân loại Kinh Môn là huyện bán sơn địa, nhưng nếu không đến Kinh Môn, thì không thể hình dung sự đặc sắc của thiên nhiên Kinh Môn. (Ảnh bìa sách An Lạc dưới trời viết về Kinh Môn thế kỷ 17)

Ngày nay, huyện Kinh Môn được xếp vào huyện miền núi, nhiều xã là xã miền núi trong danh sách hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước. Nhưng cũng chính nơi đây, một phần huyện Kinh Môn, nơi trước đây là khu vực chắn giữa sông Kinh Thày, Đá Bạc vốn là nơi đìu hiu, nghèo nàn nhất của huyện, chậm phát triển nhất tỉnh, thì nay lại là nơi có khu vực công nghiệp xi măng lớn nhất nước, đô thị hóa rất nhanh, ra đời đồng thời hai thị trấn lớn. Khu vực này đúng là một con gà gáy cả ba tỉnh cùng nghe, là nơi ngã ba tiếp giáp biên giới của Kinh Môn (Hải Dương)- Đông Triều (Quảng Ninh) và Thủy Nguyên (Hải Phòng). Dãy núi có đỉnh cao nhất là An Phụ chia huyện thành hai phần, phần Tây tiếp giáp sông Kinh Môn chạy song song với quốc lộ số 5 ruộng đồng bằng phẳng, từ Thăng Long, Quang Trung giáp Bến Tuần Mây kéo đến bến Nống (An Lưu) là một cánh đồng vựa lúa, sánh với bất cứ cánh đồng nào của Gia Lộc, Tứ Kỳ vốn nổi danh lúa gạo. Phần bên Đông núi An Phụ, dân vừa làm ruộng, vừa sinh sống với sông Kinh Thày, vốn là nơi trên bến dưới thuyền, nghề chài lưới lẫn với thương hồ hình thành tính cách quả cảm của dân Kinh Môn, có những con người còn lưu dậm dấu vết trong sử sách.
Thuở xa, khi bà Lê Chân lập trang An Biên khai phát khu vực Hải Phòng ngày nay, chắc chắn Kinh Môn không xa biển. Đến năm Quang Thuận thứ 10 (1469), Thừa tuyên Hải Dương có 4 phủ, 18 huyện thì Phủ Kinh Môn là một trong 4 phủ, quản 7 huyện: Giáp Sơn, Đông Triều, Kim Thành, An Lão, An Dương, Nghi Dương và Thuỷ Đường. Đối chiếu với bản đồ ngày nay, Kinh Môn chỉ còn là danh chỉ huyện Giáp Sơn xưa, trừ các huyện Kim Thành, Đông Triều cơ bản là đất cũ, các huyện còn lại chính là nằm lọt trong phần lớn Thành phố Hải Phòng ngày nay.
Vùng đất thuộc phủ Kinh Môn chắc chắn có một giai đoạn phát triển mạnh, vì nằm giữa Chí Linh quê gốc và Dương Kinh nơi đất căn bản của họ Mạc. Nhưng cuối triều Mạc, bắt đầu Lê Trung hưng phải gánh chịu nhiều cuộc tàn phá ghê gớm. Một phần do sự suy tàn của triều Mạc, một phần đây chính là địa điểm đường thủy nối Tây đô Thanh Hóa với Đông đô, cuộc chiến phò Lê và tồn Mạc đã làm cho cả vùng thành chiến địa. Đại Việt sử ký toàn thư chép năm 1598, Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng đã từ Thăng Long, vâng mệnh vua Lê Thế tông, kéo về Kinh Môn thảo phạt "giặc ngụy". Sau khi nhà Mạc chạy dài lên phía Bắc, thế lực chống triều đình mạnh nhất tập trung ở Thuỷ Đường (nay là Thuỷ Nguyên), rồi Đông Triều, Kim Thành, Thanh Hà, An Dương... đều không thần phục triều đình. Nhưng duy chỉ có Giáp Sơn là không thấy nói có "ngụy", và chắc chắn Nguyễn Hoàng đã kéo quân theo đường thủy đến phủ lỵ Kinh Môn làm bản doanh để làm cuộc chinh phạt. Chính vùng sông nước từ Kinh Môn đến Đồ Sơn, nằm trong khu vực phủ Kinh Môn xưa, hai trăm năm sau lại là vùng đất hoạt động của Quận He Nguyễn Hữu Cầu chống lại triều đình. (Ghi chú: Quyển tiểu thuyết Vườn An Lạc của Nguyễn Xuân Hưng đang dự thi cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà Văn VN chính là viết về giai đoạn này của Kinh Môn)
Ngược dòng lịch sử, Kinh Môn có một vùng di tích vốn là trang ấp của An Sinh vương Trần Liễu, thân sinh Đức Thánh Trần Hưng đạo đại vương. Trang ấp này ngày nay thuộc xã An Sinh, dưới chân núi An Phụ. Chính sử chép nhà Trần phát tích từ Thiên Trường, nhưng hàn vi mấy đời đánh cá trên sông, cứu công chúa nhà Lý trên sông. Ngày xưa, con sông Bạch đằng đổ vào hệ thống sông Thái Bình rồi lên kinh thành chính là đường thủy quốc lộ chính, địa vật ngày nay chắc khác xưa nhiều, con cháu nhà Trần có thể đánh cá dọc sông Kinh Thày hay không, nhưng chắc chắn An Phụ có vị trí tâm linh cao quý đối với họ Trần. Bằng chứng là sau này, các đời vua từ Minh Tông trở về sau đều không phải an táng ở Thiên Trường (Nam Định) mà an táng tại An Sinh. Có sách nói An Sinh ngày nay thuộc Đông Triều, nhưng tôi ngờ là nhầm. An Sinh vốn là trang ấp cổ của dòng trưởng họ Trần, các đời vua sau đều là con cháu của cả dòng Trần Cảnh lẫn Trần Liễu, chắc chắn phải chọn nơi đất phát của họ để an táng. Tiếc rằng sau khi Trương Phụ đánh bại nhà Hồ, đã cho tàn phá tất cả những di tích của nước ta, nhất là những dịa danh gắn với các vị vua chống ngoại xâm. Ngày nay, tượng Trần Quốc Tuấn đặt tại đỉnh An Phụ, thấp hơn đền Trần Liễu quả là đắc địa và đúng với tâm linh lịch sử. Chính An Sinh chứ không phải Thiên Trường mới là nơi Trần Quốc Tuấn sống thuở ấu thơ, gắn bó với trang ấp của cha, gần với phủ đệ Vạn Kiếp chỉ vài giờ đi thuyền.
Một di tích nổi tiếng nữa của Kinh Môn là động Kính Chủ. Động nằm trong quần thể núi đá xanh cách An Phụ vài ba cây số. Chắc rằng thời Lý, Kính Chủ là nơi trung tâm Phật giáo, trước khi các nhà tu hành phát hiện ra An Tử. Chính sử chép nơi đây có 49 hang động, lầu son gác tía. Lý Thần tông được nhà Trần cho tu ở đó, thực chất là an trí. Nay di tích này không còn nhiều, hầu như chỉ còn phế tích. Vấn đề của Kính Chủ cũng là vấn đề chung nan giải của cả nước.
Ký ức một thời về phố Huyện
Trong cuốn hồi ức của Nhà văn Nguyễn Công Hoan, ông kể rằng có thời (khoảng những năm ba mươi) ông dạy học ở phố huyện Kinh Môn. Ông cũng kể có lần được chính quyền bảo hộ vời sang Đông Triều bỏ phiếu dân biểu, ông đã tự làm cho lá phiếu của mình thành vô giá trị bằng cách khi đút phiếu váo hòm, đã cố tình ấn ngón tay cho rách lá phiếu. Các nguyên mẫu về tên quan huyện họ Lê là lấy nguyên mẫu từ tri huyện Kinh Môn, có nhiều truyện của ông viết trong thời gian ông dạy học tại Kinh Môn.
Bố tôi trạc tuổi nhà văn Nguyễn Công Hoan, bà nội tôi quê tại làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, Hưng Yên, cùng làng với nhà văn, cho nên hai ông có qua lại biết nhau. Theo kể lại, ngôi trường ông Hoan dạy học là "trường con gái", đặt tại Đèo Ngựa, hiện nay là dãy phố vòng qua thị trấn trên đường 188 vào Hoàng Thạch. Khi tôi lớn lên, khoảng thập niên sáu mươi, ngôi trường ấy đã bị phá, khu vực này hồi ấy người ta xây một cái sân khấu, chuyên để chiếu phim và biểu diễn văn công, hầu như không có nhà cửa. Bố tôi và nhiều người ít tuổi hơn ở Kinh Môn vẫn nhớ và kể rằng, bối cảnh của truyện ngắn "Tinh thần thể dục" chính là những sự kiện diễn ra tại các làng ven thị trấn Kinh Môn và chuyện đó có thật, nhà văn hầu như chỉ thổi vào câu chuyện hồn cốt của nhân vật mà thôi. Cái sân vận động mà nhà văn Nguyễn Công Hoan tả trong truyện ngắn ấy chính là Bàn Quần, một khu đất trống làm sân vận động từ những năm ba mươi, nó còn là sân vận động cho đến trước năm 1975. Sau này, người ta cho xây dựng ở đó trường Phổ thông trung học An Lưu ngày nay. Việc kiến thiết thị trấn đàng hoàng hơn, to đẹp hơn là tốt, nhưng một trong những điều đáng tiếc nhất là đã phá bỏ Bàn Quần, biến cái sân vận động ấy thành trường học và nhà ở. Những năm sáu mươi, sân vận động này thường đón các đội hạng A miền Bắc về đây thi đấu, huyện Kinh Môn có một đội bóng không phải tầm cỡ tỉnh, mà cầu thủ của đội cả miền Bắc nhiều ngươì biết.
Một điều hầu như đáng tiếc nữa là không giữ được nguyên vẹn khu Đồi Huyện. Đồi này nằm ở trung tâm thị trấn, xưa kia phủ đường phủ Kinh Môn đặt trên đồi, đường đi lên có khoảng ba chục bậc. Đồi bề thế, có cây đa tương truyền hàng trăm tuổi và rất nhiều cây phượng. Mùa hè, từ xa vài cây số đã nhìn thấy đồi hoa phượng như mâm xôi gấc. Trước năm 1975, hầu như xung quanh đồi không có nhà, nhưng những năm bảy mươi, do sáp nhập huyện với Kim Thành, các cơ quan chuyển sang Kim Thành, đồi bị bỏ hoang, rồi dân làm nhà ven đồi, vạc chân đồi thành thẳng đứng, thành ra ngày nay đồi còn lại hình thể như cái oản, chứ không còn hình đồi như cũ nữa. UBND huyện đặt trên đồi này, giờ thành ra chật chội, có lẽ cũng nên di chuyển để khu đồi phục vụ mục tiêu du lịch, công ích chăng?
Phố huyện Kinh Môn xưa có địa thế đẹp, hai quả đồi đăng đối nhau, bên này đồi huyện, bên kia là Núi Tòa. Gọi thế vì trước kia, trước năm 1945, trên núi này có Tòa nhà ngân hàng. Núi thấp, bao quanh núi là một vạt thung lũng có đầm lầy, tre pheo, sinh thái rất phong phú. Giờ đây, xung quanh núi đều mở phố, nhà nhà khoét vào chân núi, số phận núi cũng như đồi Huyện, còn lại bé tý. Hiện nay trên núi xây dựng một nhà bia tưởng nhớ liệt sĩ. Hồi xây dựng, lãnh đạo huyện có đi quyên góp đồng hương Kinh Môn ở Hà Nội, nhưng khi xây thì không hiểu duyệt bản vẽ thế nào, xây nên cái nhà bia trông rất ngộ nghĩnh, cầu kỳ mà không đẹp, người đi qua nhiều người hỏi đó là cái gì.
Kinh Môn những năm chống chiến tranh phá hoại của Mỹ từng hứng chịu nhiều trận bom. Dọc bờ sông Kinh Thày từ Kinh Hạ đến An Trung san sát thuyền bè, có các xí nghiệp đường sông, nhiều âu thuyền, nhiều lò vôi, lò ngói. Dọc bờ sông ấy, những năm sau mươi là một hệ thống đầm lầy, mùa mưa thành hồ nước mênh mông. Nay thì tất cả thành đất liền cả, nhà nhà san sát... Đông đúc hơn, nhưng không sầm uất hơn, bởi vì xung quanh thị trấn vẫn thiếu thiếu một nền tảng tạo nên công ăn việc làm vững chắc cho người thị trấn. Thanh niên lớn lên thiếu việc làm, những nghề ven sông như vôi, chài lưới hay buôn bán ở chợ huyện chưa đủ mạnh để có thể làm chủ được thị trường, tạo lấp cuộc sống cho đại bộ phận người dân. Vẫn là gật gấu vá vai kiểu mới. Thị trấn không có hàng ăn lớn, dịch vụ cũng lèo tèo, bởi vì thu nhập đại đa số không cao. Trước năm 1946, thị trấn đã là một trung tâm của cả vùng, tiêu thổ kháng chiến đã phá đi bao nhiêu phố xá. Nay Thị trấn Kinh Môn vẫn chỉ là một thị trấn phụ, không thể bằng Đông Triều hay Mạo Khê. Dường như Thị trấn Kinh Môn đang bị lãng quên.
Thế mạnh và mặt trái nan giải
Thế mạnh của Kinh Môn là có khu công nghiệp Nhị Chiểu, nhưng chính khu công nghiệp này mang lại mặt trái rất nan giải. Hàng chục nhà máy xi măng thi nhau nhả khói trên diện tích chật hẹp của bốn xã "khu đảo", một mặt đã biến khu vực này thành đô thị, đời sống cải thiện, nhưng môi trường khu vực này bị phá huỷ nghiêm trọng. Cây cối khu vực Minh Tân, Phú Thứ bị bao phủ một màu bụi vàng, bệnh tật có nguy cơ đe dọa người dân. Mặt trái của phát triển nhìn thấy nhãn tiền. Nhiều báo đã đăng phóng sự về chuyện này.
Một mặt trái của phát triển sản xuất xi măng là phá hoại cảnh quan. Trước đây, Khu Nhị Chiểu được người Kinh Môn tự hào gọi là "Hạ Long cạn", nó cùng với các dãy núi đá Thủy Nguyên hợp thành một quần thể cảnh quan kỳ thú. Đứng ở Hoàng Thạch, như là nhìn thấy núi núi mọc lên giữa đồng bằng như thấy hàng trăm cánh buồm vĩ đại. Tại đây, trước đây đã diễn ra những cuộc chiến đấu của nghĩa quân Đốc Tít, một nhánh quân của nghĩa quân Bãi Sậy, chống Pháp. Những trang sử ấy còn chìm lấp trong lau lách của những núi đá vùng Phú Thứ. Nay mới làm xi măng hai mươi năm, hầu hết núi non sạt hết, những dãy núi khổng lồ cũng dần tiêu vong, ngày biến mất trên mặt đất đã có thể tính được. Tôi đã đến đấy cùng với các chuyên gia Bộ Công nghiệp và những người làm xi măng đến từ Đài Loan. Họ tính dứt khoát 50 năm nữa vùng này sẽ thành bằng địa, rồi đến lúc khai thác đá phải chui xuống đất như khai thác than ở Quảng Ninh. Làm nên một dãy núi mất hàng triệu triệu năm, phá nó rất nhanh. Rồi đến một lúc, e rằng chính chúng ta mới đau xót thấy cái lợi làm xi măng chắc sẽ nhỏ hơn nhiều so với giá trị địa chính trị, lịch sử và để khai thác cho ngành du lịch. Con cháu chúng ta chắc sẽ phán xử chúng ta.
Nếu biết khai thác du lịch, có thể một tua du lịch Kinh Môn xứng đáng trở thành một tua du lịch đặc sắc có một không hai. Quần thể núi An Phụ với tượng Hưng đạo vương Quốc Tuấn chính là điểm nhấn. Quanh chân núi An Phụ, không biết các nhà khảo cổ có vào cuộc không, chắc còn tìm thấy nhiều di tích của vương triều Trần. Thời tôi còn bé, đã từng biết người ta đào thấy một một bà công chúa ở nơi này. Cách xa An Phụ vài cây số là quần thể Động Kính Chủ với những di tích độc đáo. Như đã nói, nơi đây có nhiều văn bia, mà nổi tiếng nhất là bài thơ của Phạm Sư Mạnh khắc ca ngợi thời Trùng Hưng. Đáng tiếc là cách đây 1-2 năm, khi tôi đến Kính Chủ, thấy cái bia đó vỡ một góc, người ta đã lấy xi măng trát liền cái góc ấy, trông thật phản cảm, chứng tỏ người quản lý cũng không biết giá trị của nó thế nào. Chí ít, người ta cũng nên lắp vào đó một mảng bia mới có khắc chữ, cho hợp với mảng bia cũ, và ghi chú rằng mảng bia này chắp mới chẳng hạn. Cả quần thể này gồm nhiều núi đá, qua thời gian chỉ còn rất ít, năm vừa qua, lại rộ lên chuyện một doanh nghiệp đánh đá lấy ở núi Lĩnh Đông, của cải của thời xưa chắc đang mai một dần đi.
Rồi đây, đường 188 sẽ làm, cùng với nó là cầu sang Hoàng Thạch, đi một mạch từ Hải Phòng, qua Phú Thái đến Quảng Ninh không còn phải qua phà nữa, thị trấn Nhị Chiểu, Phú Thứ sẽ phồn thịnh hơn, nhưng cái bụi đỏ vẫn đầy trời, những núi đá cảnh quan đẹp tuyệt vời của Khu vực ấy sẽ hết thì không biết sự phồn thịnh ấy sẽ mất hết dư vị đặc sắc, giống như người con gái đã mất hết duyên chăng?
Nói làm một tua du lịch không phải chỉ cho du lhách đến nhìn ngắm, mà còn để du lhách thưởng thức những đặc sản của nơi này. Kinh Môn là trung tâm của vùng rươi. Bạn tôi người Kinh Môn, cứ cuối tháng chín Âm lịch lại nhớ rươi, bỏ Hà Nội về Kinh Môn chỉ để ăn một bữa rươi ra rươi. Có người về Kinh Môn chỉ để ăn con "cà-ra" nó như thế nào. Rồi có ông ở Hải Phòng, mỗi tháng một lần lại về Kinh Môn xách một chai mắm cáy. Rau muống mùa hè chấm với mắm cáy, rồi bát mắm ấy chả nên đổ đi đâu phí phạm, đổ ngay vào bát nước rau, một bát nước rau muống ấy đố ai uống rồi không nhớ mãi cái mùi vị đặc biệt không đâu có được. Ông Phạm Văn Đại, Phó chủ tịch huyện Kinh Môn khi tiếp một đoàn chuyên viên, nói đi nói lại, mấy tay chuyên viên chỉ thích ăn con cà-ra và rau muống chấm mắm cáy. Chủ nhà cứ nghĩ những ba ba, dê bò lợn gà đâu đâu. Có những điều người sở tại cho là đơn giản, nhưng với khách xa, đó là đặc sản.
Lời kết
Tôi không có ý viết một bài phóng sự điều tra, cũng không có ý viết một bài bút ký ca ngợi quê hương. Giữa hai thái cực ấy, tôi chọn cách viết tản văn... ngập ngừng. Nói gì cũng khó. Kinh Môn chỉ là một huyện trong tỉnh Hải Dương, chắc rằng Hải Dương kiêu hãnh vì có vùng đất này, và Kinh Môn cũng ý thức được sự kiêu hãnh ấy. Nhưng giống như nuôi một đứa con, giá như Hải Dương thấu hiểu Kinh Môn hơn thì đứa con ấy lớn khôn hơn, đẹp rực rỡ và lâu bền hơn... Chắc rằng trong chiến lược phát triển của các nhà lãnh đạo, có nhiều dự án ghê gớm, tôi qua lại Kinh Môn, cũng nghe các lãnh đạo nói nhiều về tương lai. Việc đó đáng mừng, những người con của Kinh Môn chỉ có thể nói vọng về một chút tấm lòng với vùng đất quê hương.